2024 - Q4 | GIĂNG

Tên miền mới anhsanglethat.org

 Bài Học 3, 12 Tháng 10 – 18 Tháng 10 

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Giăng 1:1–5, Sáng thế Ký 1:1, Giăng 1:9–13, Giăng 3:16–21, Giăng 9:35–41, Ma-thi-ơ 7:21–23, Giăng 17:1–5. 

CÂU GỐC: “’Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời”’ (Giăng 1:1). 

Đọc Giăng 1:1-5. Những câu này giúp ta hiểu thêm gì về Ngôi Lời, Chúa Giê-su? 

Giăng bắt đầu phúc âm bằng cách kể về sự hiện diện của Chúa Giê-su, ông mở đầu bằng lẽ thật quan trọng như: “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời” (Giăng 1:1). Câu gốc đặc biệt này ẩn chứa một ý tưởng rất sâu sắc và vô cùng quan trọng về Chúa Giê-su. Là con người, ta khó có thể hiểu hết ý tưởng sâu sắc này, nhưng ta phải nhờ sức Chúa để cố gắng hiểu được ý nghĩa quan trọng ở trong đó.

Điều đầu tiên mà Giăng muốn nhắn nhủ trong câu này là gợi ý cho ta về thời điểm Đức Chúa Trời tạo dựng trời đất. Giăng bắt đầu viết phúc âm bằng những lời giống như Sáng thế Ký đã bắt đầu: “Ban đầu” (đọc Sáng thế Ký 1:1; Giăng 1:1). Ta biết rằng Ngôi Lời, là Chúa Giê-su, đã có trước khi Đức Chúa Trời tạo dựng nên bất cứ điều gì. Vì vậy, sứ đồ Giăng nói rằng Chúa Giê-su luôn hiện diện với Đức Chúa Cha ngay từ thuở ban đầu.

Tiếp theo, Giăng cho biết “Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời”. Trong Giăng 1:18, Giăng nói: “Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giãi bày Cha cho chúng ta biết”. Câu này giúp ta hiểu rằng Chúa Giê-su và Đức Chúa Cha rất gần gũi.

Sau đó Giăng nói: “Ngôi Lời là Đức Chúa Trời” (Giăng 1:1). Làm thế nào Chúa Giê-su, Ngôi Lời, có thể ở với Đức Chúa Trời và đồng thời là Đức Chúa Trời? Ta có thể tìm ra câu trả lời cho câu hỏi của mình khi hiểu được ý nghĩa quan trọng trong tiếng Hy Lạp. Ngôn ngữ Hy Lạp không có mạo từ bất định để chỉ số ít là “a/an” như trong Anh ngữ. Nhưng tiếng Hy Lạp có mạo từ xác định là “the” như trong Anh ngữ. Khi Giăng viết “the” trước một từ, ông cho ta biết rằng ông đang xác định một người hoặc vật nào đó chứ không phải bất kỳ người hay vật nào. Trong Giăng 1:1, Giăng viết từ “the” trong tiếng Hy Lạp trước “Ngôi Lời”. Vì vậy, từ “the” nhắc nhở ta hãy chú ý cẩn thận đến người đặc biệt mà Giăng nói đến.

Trong câu “Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời”, Giăng viết mạo từ “the” trước từ “Đức Chúa Trời”. Giăng muốn ta biết rằng ông đang nói về Đức Chúa Cha. Nhưng khi Giăng viết “và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời” bằng tiếng Hy Lạp, Giăng không viết từ “the” trước danh xưng “Đức Chúa Trời”. Đó là vì bây giờ Giăng đang nói về Chúa Giê-su. Chúa Giê-su không phải là Đức Chúa Cha. Nhưng Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời, Ngôi Hai của Đức Chúa Trời. Ba ngôi Đức Chúa Trời bao gồm cả ba Đấng hiệp Một: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh.

Trong Giăng 1:3,4, ông cho ta biết Chúa Giê-su là Đấng đã dựng nên muôn loài vạn vật.

“Từ thuở đời đời, Chúa Giê-su Christ đã là một với Chúa Cha; Ngài là ‘hình ảnh của Đức Chúa Trời’, hình ảnh của sự vĩ đại và uy nghi của Ngài, ‘sự chói sáng của vinh hiển Ngài.’ ”—Ellen G. White, The Desire of Ages, tr. 19. 

Tại sao thần tính trọn vẹn của Đấng Christ là phần quan trọng trong thần học? Nếu Chúa Giê-su chỉ là tạo vật, thì ta sẽ mất điều gì? Đem câu trả lời của bạn vào lớp Sa-bát và chuẩn bị thảo luận tại sao thần tính đời đời của Đấng Christ rất quan trọng cho đức tin của ta.

Đọc Giăng 1:1-3,14. Những câu này cho ta biết Chúa Giê-su đã làm gì? Tại sao lẽ thật Kinh Thánh này lại quan trọng đến vậy? 

Giăng không bắt đầu sách phúc âm bằng cách kể về cuộc đời của Chúa Giê-su hay là danh xưng của Ngài. Giăng cũng không bắt đầu với chủ đề về công việc cứu rỗi của Chúa Giê-su. Giăng bắt đầu bằng từ logos, có nghĩa là “Ngôi Lời”. Vào thời Giăng, các nhà triết học Hy Lạp sử dụng từ logos để nói về khoa học tư duy và tất cả các quy tắc quan trọng của nó.

Nhà triết học Hy Lạp Plato đã dạy rằng cuộc sống diễn ra ở hai nơi. Một nơi là thiên đàng, là nơi mọi thứ đều hoàn hảo và không có gì thay đổi. Nơi thứ hai là trên đất này, nơi mọi thứ đều thay đổi và không có gì là hoàn hảo. Một số nhà triết học vào thời Kinh Thánh nói rằng logos là một nơi nằm giữa những điều hoàn hảo trên trời và những điều dễ hư mất ở trên đất. Giăng sử dụng từ logos theo cách hoàn toàn khác với Plato. Giăng nói lẽ thật, hay logos, không phải là một ý tưởng tâm linh nào đó khó hiểu. Ngoài ra, logos không phải là một nơi nào đó nằm giữa trời và đất.

Đối với Giăng, logos là một Đấng toàn năng: Là Chúa Giê-su Christ. Ngài đã trở thành người và sống giữa chúng ta (Giăng 1:4).

Giăng cũng tin rằng logos là Lời Chúa, hay Kinh Thánh. Quan trọng hơn, Đức Chúa Trời giao tiếp với chúng ta. Ngài tỏ mình ra cho mọi người một cách tuyệt diệu nhất: Chúa Giê-su đã trở thành người và sống với chúng ta (Giăng 1:14). Sách Giăng kể về cuộc đời Chúa Giê-su, logos bày tỏ cho ta hiểu về Đức Chúa Trời hằng hữu, Đấng không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Ngài là Đức Chúa Trời luôn hành động và giao tiếp với con người một cách đặc biệt. Từ logos cho ta hiểu rằng Chúa hằng sống đã trở thành con người, một người có thân thể như ta. Trong Giăng 1:14, ông nói logos hay “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta” (Giăng 1:14). Từ này được viết là “ở giữa” có nghĩa là “dựng lều”. Giăng sử dụng Hy ngữ để giúp ta nhớ đến Xuất Ê-díp-tô Ký 25:8. Trong câu này, Đức Chúa Trời bảo dân Y-sơ-ra-ên dựng nên một nơi thờ phượng giống như cái lều (Đền Tạm) và Đức Chúa Trời có thể ngự và sống với dân Ngài. Tương tự, Chúa Giê-su là Đức Chúa Trời, sống trong thân xác con người. Ngài giấu vinh quang của Ngài trong xác thịt con người để mọi người có thể gặp Ngài khi Ngài còn ở trên đất.

Chúa là Đấng đã dựng nên chúng ta, chính Ngài đã trở thành một người như chúng ta và sống với chúng ta. Ồ! Điều này cho bạn biết gì về tình yêu thương của Chúa dành cho nhân loại?

Đọc Giăng 1:9-13. Trong những câu này, Giăng nói gì về cách con người suy nghĩ và cảm nhận về Chúa Giê-su? 

Giăng 1:1-18 là phần giới thiệu về sách Giăng, là sách kể về cuộc đời của Chúa Giê-su. Giăng 1:1-18 cho biết Chúa Giê-su là ai. Những câu này cũng cho ta biết người thời đó nghĩ và cảm nhận thế nào về Chúa Giê-su. Giăng cũng gọi Chúa Giê-su là “Ánh sáng thật” (Giăng 1:9). Chúa Giê-su giống như ánh sáng vì lời Ngài chiếu soi tâm hồn và tâm trí con người. Chúa Giê-su giống như ánh sáng giúp ta hiểu được Kinh Thánh. Như C. S. Lewis đã viết, “Tôi tin vào Cơ Đốc giáo giống như cách tôi tin mặt trời mọc vì tôi thấy mặt trời mọc. Khi mặt trời mọc, ánh sáng của nó giúp tôi nhìn thấy mọi thứ khác.”— “Is Theology Poetry?” (Nhà xuất bản Đại học Samizdat, 2014), tr. 15, xuất bản năm 1944. Ngoài ra, hãy đọc Giăng 1:9 thực sự muốn nói gì. Ánh sáng đến với con người. Nhưng không phải ai cũng đón nhận ánh sáng. Ta sẽ tìm hiểu trong bài học ngày mai, một trong những ý tưởng quan trọng nhất của sách Giăng là cách người ta tin nhận hay từ chối Chúa Giê-su. Ý tưởng đó bắt đầu ngay tại đây trong Giăng chương 1. Sự thật đáng buồn là Đấng Cứu Rỗi đã đến với dân Ngài, dân Do Thái. Nhưng nhiều người không tin nhận Ngài là Đấng Cứu Rỗi.

Trong Rô-ma 9-11, Phao-lô nói điều tương tự: nhiều người Do Thái đã từ chối Chúa Giê-su. Nhưng ở phần kết luận, Phao-lô nhắc đến một tin vui. Phao-lô nói nhiều người Do Thái, cùng với những người không phải Do Thái, sẽ tin nhận Chúa Giê-su là Cứu Chúa của họ. Phao-lô cảnh báo những người không phải Do Thái đừng khoe khoang về việc tiếp nhận Chúa Giê- su, như thể họ tốt hơn người Do Thái. Sứ đồ Phao-lô nói: “Nếu chính ngươi đã bị cắt khỏi cây ô-li-ve hoang thuận tánh mình, mà được tháp vào cây ô-live tốt nghịch tánh, thì huống chi những kẻ ấy là nhánh nguyên sẽ được tháp vào chính cây ô-li-ve mình!” (Rô-ma 11:24).

Tương tự, Giăng nói rằng tất cả những người tin nhận Chúa Giê-su là Đấng Cứu Rỗi của họ, thì sẽ trở thành con của Đức Chúa Trời. Ta trở thành con cái của Chúa khi ta tin Ngài. (Đọc Giăng 1:12,13).

Ý tưởng này kết nối phần giới thiệu của Giăng về Chúa Giê-su với phần cuối của sách Giăng. Trong Giăng 20:31 cho biết lý do tại sao ông viết sách này: Để mọi người tin rằng Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế, Con Đức Chúa Trời, và khi họ tin, họ sẽ nhận được sự sống đời đời bởi danh Ngài. 

Cuộc sống của bạn được thay đổi thế nào khi trở thành con cái Đức Chúa?

Đọc Giăng 3:16-21; 9:35-41; và 12:36–46. Những câu này cho ta thấy cùng một ý tưởng về việc tin nhận/từ chối Chúa Giê-su mà ta đã thấy trong phần giới thiệu sách Giăng về cuộc đời Chúa Giê-su như thế nào? 

Trong sách Giăng, có hai nhóm người: (1) những người tin Chúa Giê-su và tin nhận Ngài là Đấng Cứu Rỗi, và (2) những người chọn không tin Ngài.

Những người theo Chúa Giê-su thuộc nhóm thứ nhất. Ni-cô-đem (người chậm tin), người nữ bên giếng và người mù bẩm sinh cũng vậy. Nhóm thứ hai là những người Pha-ri-si, một nhóm các nhà lãnh đạo tôn giáo và các thầy tế lễ thượng phẩm, là những nhà lãnh đạo tôn giáo hàng đầu của người Do Thái. Nhóm này cũng bao gồm một trong những người đã theo Chúa Giê-su, Giu- đa, và những người đã chứng kiến Chúa làm phép lạ cho hơn 5,000 người ăn.

Giăng không dùng chữ “đức tin” hay “niềm tin” (Hy ngữ pistis) ở bất kỳ nơi nào trong sách Giăng khi kể về cuộc đời Chúa Giê-su. Nhưng Giăng sử dụng chữ “tin” (Hy ngữ pisteuo) 98 lần! Chữ này được dùng trong Tân Ước 241 lần. Vì vậy, ta có thể thấy động từ “tin” là một ý tưởng rất quan trọng trong sách Giăng. Tại sao ông sử dụng động từ “tin” mà không phải là danh từ “đức tin” hay “niềm tin”? Có lẽ Giăng muốn ta hiểu rằng trở thành một Cơ Đốc nhân là điều ta phải hành động. Ta thể hiện mình là những Cơ Đốc nhân trong cách ta sống chứ không chỉ vào những gì ta tin, vì ta biết ma quỷ cũng tin Chúa Giê-su (Gia-cơ 2:19).

Trong sách Giăng, có hai nhóm người có cách nghĩ khác nhau về Chúa Giê- su. Những người tin Chúa Giê-su sẽ đến với Ngài và không trốn tránh Ngài. Họ chấp nhận lời Ngài, ngay cả khi Ngài quở trách hay cảnh báo họ. Chúa Giê-su chính là Ánh Sáng chiếu soi trên họ. Nhóm người này tin tuyệt đối nơi Chúa và trở thành con cái Chúa.

Những người không tin nhận Chúa Giê-su sẽ đến để chống đối Ngài. Họ yêu tội lỗi hay sự dối trá chứ không yêu ánh sáng lẽ thật Kinh Thánh. Nhóm này cho rằng lời phán của Chúa Giê-su khó chấp nhận. Họ thấy Chúa vi phạm các luật lệ của họ và không hành động như những gì họ mong đợi. Họ phán xét Chúa. Họ không để cho những lời giảng dạy của Ngài phán xét lòng họ. Ta thấy hành vi này lặp đi lặp lại nơi các nhà lãnh đạo tâm linh Do Thái. Là những người lãnh đạo tâm linh cho dân tộc mình, lẽ ra họ phải tin nhận Chúa Giê-su trước hết. 

Qua đời sống, bạn thể hiện đức tin mình nơi Chúa Giê-su theo cách nào, hay trong tâm trí chỉ chấp nhận Ngài là Đấng Mê-si? Tại sao biết được sự khác biệt giữa hai điều này là rất quan trọng? (Xem Ma-thi-ơ 7:21-23).

Đọc Giăng 17:1-5. Chúa Giê-su có ý gì khi Ngài phán: “Thưa Cha, giờ đã đến; xin làm vinh hiển Con, hầu cho Con cũng làm vinh hiển Cha” (Giăng 17:1)?

Giăng bắt đầu viết sách bằng lời giới thiệu Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời và là Đấng đã dựng nên mọi sự. “Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài” (Giăng 1:3). Giăng cũng nói về sự vinh hiển của Chúa Giê-su: “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha” (Giăng 1:14). Trong Hy ngữ, từ “sự vinh hiển” có nghĩa là “sự sáng sủa”, “danh tiếng” và “danh dự”. Giăng dùng từ “vinh hiển” để nói về việc người ta tôn vinh Chúa Giê-su như thế nào và Ngài được Đức Chúa Trời yêu quý như thế nào.

Trong sách Giăng, ông kết nối ý tưởng tôn vinh Chúa Giê-su với chủ đề về “thời điểm” của Ngài. Có nghĩa là thời điểm Ngài hy sinh (so sánh với Giăng 2:4; 7:30; 8:20; 12:23-27; 13:1; 16:32; và 17:1). Vì vậy, thập giá là thời điểm của sự vinh hiển của Chúa Giê-su.

Có thể nghĩ ý tưởng này thật kỳ lạ. Làm sao thập tự giá có thể là thời khắc vinh hiển vì khi đó Chúa đối diện với hình phạt tàn nhẫn và nhục nhã nhất của thế giới La Mã xưa? Đức Chúa Trời trên thập tự giá cho ta thấy câu chuyện thiên đàng được kết nối với câu chuyện của chúng ta như thế nào.

Là một Con Người sống giữa chúng ta, Chúa Giê-su đối diện với một cái chết vô cùng kinh khiếp. Ngài chịu đau đớn, bị đóng đinh trên thập tự giá như một tội phạm kinh tởm. Trước khi chết, Chúa Giê-su đã kêu lên: “Ê-li, Ê-li, lam-ma-sa-bách-ta-ni? nghĩa là: Đức Chúa Trời tôi ơi! Đức Chúa Trời tôi ơi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?” (Ma-thi-ơ 27:46). Ta thấy bề tối của thập tự giá mang tính con người này trong sách Ma-thi-ơ và Mác (Ma-thi-ơ 27:46; Mác 15:34).

Nhưng thập tự giá còn có một mặt khác: Đó là mặt vinh hiển. Ta thấy sự vinh hiển này trong sách Lu-ca và Giăng (Lu-ca 23:32-47; Giăng 19:25-30). Ta thấy thập giá là nơi Đức Chúa Trời cứu rỗi tội nhân và ban lòng thương xót của Ngài cho họ. Ngoài ra, Chúa Giê-su, Con Đức Chúa Trời, cũng dâng chính mình Ngài cho Đức Chúa Cha.

Thật diệu kỳ phải không? Sự vinh hiển tối thượng của Đức Chúa Trời được thể hiện trong sự xấu hổ tồi tệ nhất của Ngài khi Ngài chấp nhận tội lỗi của ta là tội lỗi của Ngài.

Hãy nghĩ về ý nghĩa của việc Đức Chúa Trời cần phải chết trên thập tự giá để cứu ta khỏi tội lỗi. Ý tưởng này cho ta biết tội lỗi thực sự tệ hại đến mức nào?

NGHIÊN CỨU BỔ TÚC: Đọc sách của Ellen G. White, “ ‘God With Us,’ ” in The Desire of Ages, tr. 19–26.

“Chúa Giê-su đã phán, “Khi ta đã được treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta” (Giăng 12:32). Tội nhân phải nhìn thấy Đấng Cơ Đốc tức Đấng Cứu Thế chịu chết để chuộc tội thế gian, và khi ta nhìn xem Chiên Con của Đức Chúa Trời bị treo trên cây thập tự, bấy giờ sự huyền nhiệm về chương trình cứu rỗi bắt đầu lóe sáng trong tâm trí ta và sự trọn lành của Đức Chúa Trời dẫn ta đến sự ăn năn. Chúa Giê-su đã bày tỏ tình yêu không thể hiểu nổi khi Ngài chết thay cho tội nhân; và khi tội nhân nhìn thấy tình yêu nầy, lòng họ mềm dịu lại, một ấn tượng tốt đẹp ghi sâu vào tâm trí họ làm cho họ phải ăn năn lỗi lầm của mình.

Đôi khi con người tự cảm thấy hổ thẹn về đường lối tội lỗi mình và tự mình chừa bỏ những thói quen xấu trước khi cảm thấy được thu hút đến cùng Đấng Cơ Đốc, nhưng điều đó xảy ra cũng là bởi quyền năng của Đấng Cơ Đốc thúc đẩy họ, giúp họ chân thành khao khát làm lành và nỗ lực phục thiện. Có một ảnh hưởng mà họ hoàn toàn không hay biết đang hành động trên tâm hồn họ, làm cho lương tâm họ bừng tỉnh và cuộc đời được cải hóa. Khi Đấng Cơ Đốc hướng cặp mắt họ đến thập tự giá Ngài để nhìn xem Đấng vì tội lỗi họ mà bị đâm, thì điều răn của Đức Chúa Trời trở về cùng lương tâm họ.”—Ellen G. White, Con Đường Giải Thoát, tr. 22, 23.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN:

1. Tại sao sách Giăng bắt đầu bằng cách kể về Chúa Giê-su là Đấng Tạo Hóa? Đối với hội thánh, chủ đề này cho ta biết gì về tầm quan trọng đối với mọi điều ta tin tưởng? Tại sao hiểu đúng về Sự Sáng Tạo lại rất quan trọng đối với ta? Kinh Thánh dạy ta điều gì về chủ đề này? 

2. Chúa Giê-su vừa là Đức Chúa Trời và vừa là con người trọn vẹn. Tại sao lẽ thật này là một phần quan trọng trong đức tin của chúng ta? Điều gì sẽ xảy ra với đức tin của chúng ta, nếu Chúa Giê-su chỉ là con người chứ không phải là Đức Chúa Trời, đã chết trên thập giá? Là Cơ-Đốc nhân, ta sẽ mất đi điều gì nếu Chúa Giê-su không phải là Đức Chúa Trời hằng hữu? 

 Bài Học 2, 5–11 tháng 10 

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Giăng 6:1–15, Ê-sai 53:4–6, 1 Cô-rinh-tô 5:7, Giăng 6:26–36, Giăng 9:1–41, 1 Cô-rinh-tô 1:26–29, Giăng 11 

CÂU GỐC: “‘Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi.  Còn ai sống và tin ta thì không hề chết. Ngươi tin điều đó chăng?”‘(Giăng 11:25, 26).

 

Trong Giăng 6:4,5, vị sứ đồ cho biết rằng thời điểm Chúa hóa bánh cho năm ngàn người ăn là gần ngày lễ Vượt qua. Lễ Vượt qua là kỷ niệm về sự giải cứu dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập. Chiên con của lễ Vượt Qua chết thay cho con đầu lòng. Sự hy sinh này là biểu tượng về sự chết thay của Chúa Giê-su cho chúng ta. Trên thập giá, là hình phạt mà chúng ta phải chịu vì tội lỗi của mình, thì thay vào đó, lại đổ lên Chúa Giê-su. Đấng Cơ Đốc, Lễ Vượt qua của chúng ta, thật sự đã bị giết vì chúng ta (1 Cô-rinh-tô 5:7).

“Ngài mang lấy hình phạt của tội lỗi và không thấy sự hiện diện của Cha Ngài cho đến khi lòng Ngài tan vỡ và lìa trần. Tất cả những sự hy sinh này chỉ để cứu chuộc tội nhân.” – Ellen G. White, Thiện Ác Đấu Tranh, trang 476.

Đọc Giăng 6:1-14. Giữa Chúa Giê-su và Môi-se có điểm tương đồng nào mà chúng ta có thể thấy được ở đây? Nghĩa là, Chúa Giê-su đã làm gì để nhắc dân chúng nhớ đến sự giải cứu mà tổ phụ của họ đã nhận qua chức vụ của Môi-se?

Rất nhiều chi tiết trong câu chuyện này cho thấy Chúa Giê-su có những điểm tương đồng với Môi-se trong cuộc hành trình ra khỏi Ai Cập. Thời điểm lễ Vượt qua (Giăng 6:4) cho thấy sự giải cứu ra khỏi Ai Cập cách tuyệt vời. Chúa Giê-su lên núi (Giăng 6:3) cũng giống như Môi-se lên núi Si-nai. Chúa Giê-su thử Phi-líp (Giăng 6:5,6) giống như dân Y-sơ-ra-ên bị thử thách trong đồng vắng. Việc hóa bánh ra nhiều (Giăng 6:11) gợi nhớ đến ma-na. Việc thu gom những bánh thừa (Giăng 6:12) gợi nhớ hình ảnh dân Y-sơ-ra-ên đi lượm bánh ma-na. Mười hai giỏ bánh còn thừa được thu nhặt (Giăng 6:13), con số trùng với mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên. Và người ta cho rằng Chúa Giê-su là đấng tiên tri phải đến thế gian (Giăng 6:14), giống với “tiên tri như Môi-se” được báo trước trong Phục truyền Luật lệ Ký 18:15. Tất cả những điều này cho thấy Chúa Giê-su là một Môi-se mới – phải đến để giải cứu dân sự Ngài.

Do đó, Giăng cho thấy Chúa Giê-su không những chỉ làm các dấu kỳ và phép lạ, mà những dấu kỳ và phép lạ này, trong bối cảnh của chúng, phải có ý nghĩa đặc biệt đối với dân Giu-đa. Điều cốt yếu là, Ngài đang chỉ cho họ thấy thần tính của Ngài.

Đọc Ê-sai 53:4-7 và 1 Phi-e-rơ 2:24. Những câu Kinh Thánh này dạy lẽ thật vĩ đại nào về Chúa Giê-su, là Chiên Con của Đức Chúa Trời? Thần tính của Ngài gắn liền với lẽ thật này như thế nào, và tại sao lẽ thật này là lẽ thật quan trọng nhất mà chúng ta có thể biết đến?

 

Đọc Giăng 6:14,15,26-36. Dân chúng phản ứng như thế nào trước phép lạ của Ngài, và Chúa Giê-su dùng điều này như thế nào để dạy họ biết Ngài là ai?

Dân Giu-đa mong đợi một Đấng Mê-si của trần thế, là người sẽ giải cứu họ khỏi sự áp bức của Đế quốc La Mã. Hai trong những điều khó khăn nhất trong chiến tranh là cung cấp lương thực cho quân đội và chăm sóc những người bị thương và tử trận. Bởi các phép lạ của Ngài, Chúa Giê-su cho thấy rằng Ngài có thể làm được cả hai điều đó.

Nhưng đó không phải là lý do Chúa Giê-su đến thế gian, và đó cũng không phải là mục đích để Ngài làm phép lạ. Thay vào đó, câu chuyện Chúa hóa bánh cho năm ngàn người ăn là cơ hội để chứng minh rằng Chúa Giê-su là Bánh Sự Sống, rằng Ngài chính là Đức Chúa Trời đã từ trời xuống. “Đức Chúa Giê-su phán rằng: Ta là bánh của sự sống, ai đến cùng ta chẳng hề đói” (Giăng 6:35).

Đây là câu đầu tiên trong bảy câu nói “Ta là” trong Phúc Âm của Giăng, trong câu “Ta là” được kết nối với một số vị ngữ (“bánh sự sống” (Giăng 6:35); “sự sáng của thế gian” (Giăng 8:12); “cái cửa” (Giăng 10:7,9); “người chăn hiền lành” (Giăng 10:11,14); “sự sống lại và sự sống” (Giăng 11:25); “đường đi, lẽ thật, và sự sống” (Giăng 14:6); “gốc nho thật” (Giăng 15:1,5). Mỗi một trường hợp đều chỉ ra một lẽ thật quan trọng về Chúa Giê-su. Những câu nói “Ta là” hướng chúng ta quay về Xuất Ê-díp-tô Ký 3, là nơi Đức Chúa Trời giới thiệu với Môi-se, Ngài chính là Đấng TA LÀ vĩ đại (so sánh với Giăng 8:58). Chúa Giê-su chính là Đấng TA LÀ vĩ đại.

Nhưng dân chúng đã bỏ lỡ tất cả những điều này.

“Tấm lòng bất mãn của họ đã thắc mắc, nếu Chúa Giê-su có thể thực hiện nhiều việc kỳ diệu như họ đã chứng kiến, thì tại sao Ngài không thể ban sức khỏe, sức mạnh, và sự giàu có cho dân sự của Ngài, giải cứu họ khỏi những kẻ áp bức, và ban cho họ quyền lực và sự tôn trọng? Việc Ngài tuyên bố mình là Đấng được Đức Chúa Trời sai đến, nhưng lại từ chối làm vua Y-sơ-ra-ên, là một điều mầu nhiệm mà họ không thể nào thấu hiểu. Sự từ chối của Ngài đã bị hiểu sai. Nhiều người kết luận rằng Ngài không dám khẳng định lời tuyên bố của mình, họ cho rằng chính Ngài cũng hoài nghi về tính chất thiêng liêng của sứ mạng của Ngài. Vì vậy, họ đã mở lòng mình cho sự vô tín, và hạt giống mà Sa-tan đã gieo đã đơm bông kết trái, trong sự hiểu sai và chối bỏ.” – Ellen G. White, Nguyện Ước Thời Đại, trang 385.

Họ đang tìm kiếm lợi ích vật chất thay vì chân lý tồn tại đến đời đời. Đây là cái bẫy mà tất cả chúng ta đều có thể gặp phải nếu không cẩn thận.

Làm thế nào để chúng ta đừng đánh mất đời sống tâm linh bằng những lôi cuốn từ của cải vật chất?

 

Đọc Giăng 9:1-16. Các môn đồ nghĩ nguyên nhân khiến người đàn ông này bị mù là gì, và Chúa Giê-su đã chỉnh sửa niềm tin sai lầm của họ như thế nào?

Các môn đồ đã đưa ra mối liên hệ giữa bệnh tật và tội lỗi. Một số đoạn Kinh Thánh trong Cựu Ước đã nói về vấn đề này (so sánh với Xuất Ê-díp-tô Ký 20:5; 2 Các vua 5:15-27; 2 Các vua 15:5; 2 Sử ký 26:16-21), nhưng câu chuyện của Gióp cho chúng ta sự thận trọng, liệu một kết nối như vậy có luôn luôn xảy ra không.

Chúa Giê-su đi thẳng vào vấn đề, không phủ nhận bất cứ sự nối kết nào giữa tội lỗi và đau khổ, nhưng trong trường hợp này, Ngài chỉ ra một mục đích cao cả hơn, đó là Đức Chúa Trời được vinh hiển qua việc chữa lành. Câu chuyện chứa đựng các mối liên hệ nhất định với câu chuyện Sáng tạo, đó là Đức Chúa Trời đã tạo nên con người đàn ông đầu tiên từ bụi đất (Sáng 2:7), giống như Chúa Giê-su dùng đất sét để chữa bệnh cho người mù, như là bù đắp phần còn thiếu từ trong lòng mẹ của người ấy.

Trong Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca, những câu chuyện về phép lạ thường tuân theo một khuôn mẫu chung: diễn đạt vấn đề, đưa người bệnh đến với Chúa Giê-su, được chữa lành, và ngợi khen Đức Chúa Trời khi nhận ra mình được chữa lành.

Câu chuyện trong Giăng 9, diễn tiến câu chuyện chấm dứt trong câu 7. Nhưng đặc thù của Giăng là, tầm quan trọng của phép lạ trở thành chủ đề tranh luận rộng rãi hơn nhiều, dẫn đến sự tương tác lâu dài giữa người đàn ông được chữa lành và các nhà lãnh đạo tôn giáo. Cuộc tranh luận nổi bật này xoay quanh hai cặp khái niệm tương phản đan xen nhau – tội lỗi/công việc của Đức Chúa Trời và sự đui mù/thị lực.

Mãi đến Giăng 9:14 người kể chuyện mới nói cho độc giả biết rằng Chúa Giê-su đã chữa bệnh trong ngày Sa-bát, là điều mà theo truyền thống chứ không phải theo Kinh Thánh, đã vi phạm ngày Sa-bát. Do đó, Ngài bị người Pha-ri-si cho là kẻ vi phạm ngày Sa-bát. Họ kết luận rằng Ngài không phải đến từ Đức Chúa Trời vì họ khẳng định “Ngài không giữ ngày Sa-bát”. Nhưng những người khác thấy bất bình, vì một tội nhân làm sao có thể làm được những phép lạ như vậy (Giăng 9:16).

Cuộc tranh cãi sẽ còn kéo dài nữa, nhưng nó đã gây ra sự chia rẽ. Người mù càng lúc càng biết rõ hơn về Chúa Giê-su là ai, nhưng những nhà lãnh đạo tôn giáo càng lúc càng trở nên bối rối hoặc mù mờ về danh tính thật sự của Ngài.

Câu chuyện này cho chúng ta biết gì về những nguy hiểm của việc quá mù quáng bởi niềm tin và truyền thống của chính mình, đến nỗi bỏ lỡ các lẽ thật quan trọng ngay trước mắt chúng ta?

Đọc Giăng 9:17-34. Các nhà lãnh đạo đã hỏi những câu hỏi gì, và người mù trả lời như thế nào?

Phần này trong Giăng 9 là phần duy nhất trong sách Giăng, mà Chúa Giê-su không phải là diễn viên chính trên sân khấu, mặc dầu, chắc chắn Ngài là chủ đề của sự tranh luận. Ngay khi câu hỏi về tội lỗi bắt đầu trong câu chuyện (Giăng 9:2), thì những người Pha-ri-si nghĩ Chúa Giê-su là một tội nhân, vì Ngài đã chữa bệnh trong ngày Sa-bát (Giăng 9:16,24), và họ vu khống người được chữa lành là “sanh ra trong tội lỗi” (Giăng 9:34).

Một sự đảo ngược kỳ lạ xảy ra. Khi người mù càng biết ơn Chúa và tin tưởng vào Ngài, thì ông càng ngày càng thấy rõ hơn về Ngài, không những về thể chất mà cả về tâm linh. Ngược lại, những người Pha-ri-si càng ngày càng trở nên mù quáng về sự hiểu biết của họ, trước tiên trong họ có sự chia rẽ vì Chúa Giê-su (Giăng 9:16), và sau đó họ không biết Ngài từ đâu đến (Giăng 9:29).

Trong khi đó, việc tường trình của ông về phép lạ này đã cho Giăng cơ hội nói cho chúng ta biết Chúa Giê-su là ai. Chủ đề về các phép lạ trong Giăng 9 giao thoa với nhiều chủ đề khác trong Phúc Âm. Giăng tái khẳng định rằng Chúa Giê-su là Sự Sáng của thế gian (Giăng 9:5; so sánh với Giăng 8:12). Câu chuyện cũng đề cập đến nguồn gốc bí ẩn của Chúa Giê-su. Ngài là ai, Ngài đến từ đâu, sứ mạng của Ngài là gì? (Giăng 9:12,29; so sánh với Giăng 1:14). Môi-se, người được nói đến trong những câu chuyện phép lạ trước đó, cũng xuất hiện trong đoạn này (Giăng 9:28,29; so sánh với Giăng 5:45,46 và Giăng 6:32). Cuối cùng là chủ đề về phản ứng của đám đông. Một số người thích bóng tối hơn ánh sáng, trong khi những người khác thì đáp lại bằng đức tin (Giăng 9:16-18, 35-41; so sánh với Giăng 1:1-16, Giăng 3:16-21, Giăng 6:60-71).

Điều đáng sợ ở đây là sự mù quáng về tâm linh của những nhà lãnh đạo tôn giáo. Một người ăn xin từng bị mù có thể tuyên bố, “Người ta chẳng bao giờ nghe nói có ai mở mắt kẻ mù từ thuở sanh ra. Nếu người này chẳng phải đến từ Đức Chúa Trời, thì không làm gì được hết” (Giăng 9:32,33). Thế nhưng các nhà lãnh đạo tôn giáo, những người dẫn dắt phần tâm linh của dân tộc, là những người đáng lẽ ra trước tiên phải nhận ra Chúa Giê-su và tin nhận Ngài là Đấng Mê-si – họ lại không thể nhận ra điều đó, vì họ xem thường mọi bằng chứng đầy quyền năng. Hoặc thay vào đó, họ thật sự không muốn nhận ra điều này. Thật là một lời cảnh báo mạnh mẽ về sự cứng lòng của chúng ta có thể lừa dối chúng ta như thế nào!

Đọc 1 Cô-rinh-tô 1:26-29. Những gì Phao-lô đã viết trong đó phù hợp với những gì đã xảy ra trong bối cảnh này như thế nào, và nguyên tắc đó vẫn được áp dụng cho ngày nay như thế nào?

 

 

Đầy nỗi đau buồn trong Giăng 11 – tin buồn về bệnh tình của một người bạn thân (Giăng 11:1-3); sự than khóc trước cái chết của La-xa-rơ (Giăng 11:19,31,33); lời than khóc của hai em gái của La-xa-rơ: nếu có Chúa Giê-su ở đó thì anh của họ đã không qua đời (Giăng 11:21,32); và những giọt nước mắt của chính Chúa Giê-su (Giăng 11:35).

Nhưng Chúa Giê-su đã ở lại hai ngày trước khi bắt đầu cuộc hành trình đến nhà La-xa-ra (Giăng 11:6), thậm chí điều này còn cho thấy rằng Ngài đã vui vì không đến đó sớm hơn (Giăng 11:14, 15). Hành động này không hề xuất phát từ tấm lòng lạnh lùng vô cảm. Đúng hơn, đó là điều bày tỏ sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.

Khi chúng ta đọc đến Giăng 11:17-27, La-xa-rơ đã chết được bốn ngày. Sau bốn ngày, xác của ông đã bị thối rữa, và khi Ma-thê nói, “Lạy Chúa, đã có mùi, vì người nằm đó bốn ngày rồi” (Giăng 11:39). Không có gì phải nghi ngờ, sự trì hoãn của Chúa Giê-su chỉ góp phần làm cho phép lạ xảy ra sau đó càng đáng kinh ngạc hơn. Làm sống lại một xác chết đã thối rữa? Còn bằng chứng nào khác hơn phép lạ này, để Chúa Giê-su có thể cho thấy Ngài thật sự là Đức Chúa Trời?

Là Đức Chúa Trời và là Đấng tạo nên sự sống ngay từ đầu: Chúa Giê-su có quyền trên sự chết. Vì thế, Chúa Giê-su sử dụng cơ hội này, sự chết của La-xa-rơ, để bày tỏ một lẽ thật quan trọng về chính Ngài. “Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi. Còn ai sống và tin ta thì không hề chết” (Giăng 11:25,26).

Đọc Giăng 11:38-44. Chúa Giê-su đã làm gì để hỗ trợ cho lời tuyên bố của Ngài?

Chúa Giê-su đã chứng tỏ Ngài là sự Sáng của thế gian (Giăng 8:12, Giăng 9:5) bằng cách cho người mù được sáng mắt (Giăng 9:7), thì cũng vậy, ở đây, Ngài đã khiến La-xa-rơ sống lại từ cõi chết (Giăng 11:43,44), điều này chứng minh rằng Ngài là Sự Sống Lại và là Sự Sống (Giăng 11:25).

Phép lạ này, hơn bất kỳ phép lạ nào khác, cho thấy Chúa Giê-su là Đấng Ban Sự Sống, là Đức Chúa Trời. Phép lạ này hỗ trợ mạnh mẽ cho chủ đề của Giăng đó là Chúa Giê-su chính là Con thiêng liêng của Đức Chúa Trời, nhờ Ngài và bởi đức tin, chúng ta có được sự sống (Giăng 20:30,31).

Tuy nhiên, khi chúng ta đọc đến cuối câu chuyện kỳ lạ này (Giăng 11:45-54), thấy trong đó nhiều người đã tin (Giăng 11:45), một sự trớ trêu đến lạ lùng đã xảy ra nhưng cũng đáng buồn. Chúa Giê-su cho thấy Ngài có thể khiến cho kẻ chết sống lại, vậy mà, những con người này nghĩ rằng họ có thể chấm dứt cuộc sống Ngài bằng cách giết Ngài? Thật là một hình ảnh về những nhược điểm của con người, hoàn toàn tương phản với sự khôn ngoan và quyền năng của Đức Chúa Trời!

 

NGHIÊN CỨU BỔ TÚC: Đọc các chương viết của bà Ellen G. White, “Cuộc khủng hoảng ở Ga-li-lê (The Crisis in Galilee)” trang 383–394; “Hỡi La-xa-rơ, Hãy ra!” trang 524–536; và “Những âm mưu của các các thầy tế lễ” trang 537–542, trong quyển Nguyện Ước Thời Đại.

“Sự sống mà Đấng Cơ Đốc đã ban cho thế gian nằm trong Lời của Ngài. Bởi Lời của Ngài mà Chúa Giê-su đã chữa lành bệnh tật và đuổi quỷ; bởi Lời của Ngài mà biển yên lặng, và cũng bởi Lời ấy, Ngài khiến kẻ chết sống lại; dân chúng đã làm chứng rằng Lời của Ngài có quyền năng. Ngài đã nói Lời của Đức Chúa Trời, Ngài đã phán qua các nhà tiên tri và các giáo sư trong thời Cựu Ước. Toàn bộ Kinh Thánh đã bày tỏ về Đấng Cơ Đốc, và Đấng Cứu Rỗi mong muốn đức tin của những người theo Ngài được vững chắc bởi Lời. Khi sự hiện diện hữu hình của Ngài không còn nữa, Lời phải là nguồn sức mạnh của họ. Giống như Thầy của họ, họ phải sống ‘nhờ mọi Lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời’ (Ma-thi-ơ 4:4).

“Đời sống thể chất của chúng ta được duy trì bởi thực phẩm, cũng vậy, đời sống tâm linh của chúng ta phải được duy trì bởi Lời của Đức Chúa Trời. Mỗi một linh hồn phải nhận sự sống từ Lời của Đức Chúa Trời cho chính mình. Chúng ta phải ăn để nhận được sự dinh dưỡng, vậy thì, chính bản thân chúng ta phải suy gẫm Lời. Chúng ta không thể đạt được Lời chỉ nhờ vào sự truyền đạt từ người khác. Chúng ta phải học Kinh Thánh cách cẩn thận, cầu xin sự trợ giúp từ Thánh Linh của Đức Chúa Trời, nhờ đó chúng ta mới hiểu được Lời của Ngài.” – Ellen G. White, Nguyện Ước Thời Đại, trang 390.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN:

1.Đức tin mà người ta có trong Chúa Giê-su đã giúp cho phép lạ chữa lành của ngài được ứng nghiệm. Hành động của các nhà lãnh đạo Do Thái cho thấy lòng họ đầy nghi ngờ. Tại sao đặt những câu hỏi chân thành và lòng có sự hồ nghi thì không giống nhau? Tại sao rất quan trọng là bạn phải biết hai điều này khác nhau?

2. Xem lại câu hỏi cuối cùng của ngài thứ Năm. Là những người cơ Đốc Phục Lâm, tại sao ta phải cẩn thận với mối nguy hiểm này? Biết lẽ thật ngày sa-bát, biết về tình tráng người chết…Nhưng tại sao biết những lẽ thật này không đủ để cứu ta? Điều gì cứu ta và bằng cách nào?

3. Hãy nghiêm cứu Giăng 5:47 . Ngày nay, nhiều người không tin rằng trận lũ lụt xảy ra. Họ không tin Chúa đã tạo dựng bầu trời và trái đất trong sáu ngày. nhưng người này đang làm những gì mà Chúa Giê-su đã cảnh báo trong Giăng 5:47?

 Bài Học 1, 28 Tháng 9 – 4 Tháng 10 

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: “Giăng 2:1–11; Giăng 4:46–54; Giăng 5:1–16; Mác 3:22, 23; Ma-thi-ơ 12:9–14; Giăng 5:16–47.”

CÂU GỐC: “Đức Chúa Jêsus đã làm trước mặt môn đồ Ngài nhiều phép lạ khác nữa, mà không chép trong sách nầy. Nhưng các việc nầy đã chép, để cho các ngươi tin rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, tức là Con Đức Chúa Trời, và để khi các ngươi tin, thì nhờ danh Ngài mà được sự sống” (Giăng 20:30, 31).

 

Chúa Giê-su đã làm phép lạ đặc biệt nào ở Ca-na? Phép lạ này đã giúp cho những người bước theo Ngài tin vào Ngài như thế nào? Xin đọc Giăng 2:1-11.

Trong Giăng đoạn 2, Chúa Giê-su làm phép lạ đầu tiên của Ngài. Chúa đã biến nước thành rượu. Phép lạ này đã giúp những người theo Chúa Giê-su quyết định đi theo Ngài. Phép lạ này chưa là một dấu hiệu thuyết phục cho những người theo Chúa hiểu rằng Chúa Giê-su là Đấng đến từ Đức Chúa Trời. (Chắc chắn vào thời điểm đó những người theo Ngài chưa sẵn sàng hiểu rằng Chúa Giê-su chính là Đức Chúa Trời.)

Phép lạ cũng giúp những người theo Chúa Giê-su nhớ đến Môi-se. Môise là người lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng. Đức Chúa Trời đã dùng Môi-se để đưa dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập với nhiều “dấu kỳ phép lạ” (đọc Phục truyền luật lệ Ký 6:22 và so sánh với 26:8). (Có thể nói Môi-se chính là “vị cứu tinh” của dân Y-sơ-ra-ên.) Vì vậy, phép lạ đã giúp người Do Thái nhớ lại thời kỳ Chúa giải phóng dân Y-sơ-ra-ên khỏi ách nô lệ ở Ai Cập. Sau này, Chúa hứa với Môi-se rằng Ngài sẽ sai một sứ giả đặc biệt đến với dân Ngài trong tương lai. Sứ giả này cũng giống như Môi-se. Chúa bảo dân Y-sơ-ra-ên vâng lời sứ giả đặc biệt này và sứ giả này chính là Chúa Giê-su.

Khi Môi-se dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, Chúa đã trừng phạt Ai Cập bằng mười tai vạ. Tai vạ đầu tiên là Chúa đã biến nước sông Nile thành máu. Sông Nile rất quan trọng đối với người Ai Cập. Họ tôn thờ sông Nile giống như một vị thần. Tại Ca-na, Chúa Giê-su cũng làm phép lạ với nước. Nhưng Ngài biến nước thành rượu chứ không phải máu.

Nước đến từ sáu chậu nước. Nước này được sử dụng để thanh tẩy theo luật tôn giáo của người Do Thái. Những luật này cho thấy Chúa đã cứu con người khỏi tội lỗi như thế nào. Vì vậy, phép lạ Chúa Giê-su làm ở Ca-na đã giúp người Do Thái suy nghĩ đến lẽ thật Kinh Thánh về sự cứu rỗi. Khi Giăng viết về Chúa Giê-su biến nước thành rượu, ông đã làm hai điều. (1) Giăng giúp con người nhớ lại cách Đức Chúa Trời đã giải phóng dân Y-sơ-ra-ên khỏi Ai Cập. Và (2), Giăng đã giúp con người hiểu rằng Ngài là Cứu Chúa của họ.

Người chủ tiệc nghĩ gì về nước mà Chúa Giê-su đã biến thành rượu? Ông ngạc nhiên. Rượu nho có vị tuyệt vời. Ông không biết Chúa Giê-su đã làm phép lạ. Ông cho rằng những người lo tiệc cưới đã để dành rượu nho ngon nhất cho đến cuối buổi tiệc cưới.

Thuật ngữ oinos trong tiếng Hy Lạp được dùng cho cả nước nho tươi và nước nho đã lên men (xem Từ Điển Kinh Thánh Cơ Đốc Phục Lâm, tr. 1177). Bà Ellen G.

 Bạn tin theo Chúa Giê-su vì những lý do gì? Chúng ta đã được ban cho rất nhiều, phải không?
White nói rằng nước trái cây được tạo ra từ phép lạ không phải là rượu (xem “Tại Tiệc Cưới,”
The Desire of Ages, tr. 149). Không còn gì phải nghi ngờ, những người biết sự việc đã xảy ra đều kinh ngạc về việc ấy. 

 

Chúa Giê-su đã thực hiện nhiều phép lạ trong suốt khoảng thời gian Ngài sống trên đất. Những phép lạ ấy đã góp phần khích lệ người ta tin vào Ngài. Giăng viết lại những phép lạ này để người ta cũng tin vào Chúa Giê-su.

Hãy suy gẫm phép lạ thứ hai của Chúa trong Giăng 4:46-54. Tại sao Giăng liên kết phép lạ thứ hai với phép lạ thứ nhất mà Chúa Giê-su đã thực hiện tại tiệc cưới?

Giăng muốn người ta hiểu rằng các phép lạ của Chúa Giê-su sẽ giúp họ nhận biết Ngài là ai. Vì vậy, Giăng liên kết phép lạ thứ hai của Chúa Giê-su với phép lạ đầu tiên của Ngài. Sau đó, Giăng nói rằng, “Ấy là phép lạ thứ hai mà Đức Chúa Jêsus đã làm, khi Ngài từ xứ Giu-đê trở về xứ Ga-li-lê” (Giăng 4:54).

Khi mới tìm hiểu về phép lạ của Chúa, ta có thể cho rằng câu trả lời của Chúa Giê-su dành cho quan thị vệ người Do Thái thật nhẫn tâm. Nhưng để ý rằng quan thị vệ này không chịu tin Chúa Giê-su cho đến khi Ngài chữa lành con trai ông. Chúa Giê-su hiểu điều gì trong lòng người này. Bệnh thuộc linh trong lòng người đàn ông này còn tệ hơn vấn đề khiến con trai ông bị bệnh. Lời của Chúa Giê-su đã chạm đến tấm lòng của ông. Ông hiểu rằng bệnh tâm linh của chính mình là nguyên nhân khiến con trai ông có thể phải mất mạng.

Phải hiểu rằng các phép lạ không bao giờ đủ để chứng tỏ cho cta biết Chúa Giê-su là Chúa Cứu Thế. Có những người đã làm các phép lạ trong quá khứ. Một trong số những người này là những sứ giả thực sự từ Chúa. Nhưng những sứ giả giả mạo cũng đã làm phép lạ. Các phép lạ chỉ cho ta thấy có một quyền lực nào đó mạnh mẽ hơn con người đang hành động. Phép lạ không có nghĩa là Chúa mới là Đấng thực hiện chúng. (Sa-tan cũng có thể làm “phép lạ,” phải không?)

Quan thị vệ xin Chúa Giê-su bày tỏ lòng thương xót và chữa lành cho con trai ông. Câu trả lời của Chúa Giê-su đã mang lại hy vọng cho ông. “Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đi, con của ngươi sống. Người đó tin lời Đức Chúa Jêsus đã phán cho mình, bèn đi” (Giăng 4:50). Cụm từ “hãy đi, con của ngươi sống” cho ta thấy điều gì đó sẽ xảy ra trong tương lai. Nhưng trong ngôn ngữ Hy Lạp, nó có nghĩa là một hành động đang xảy ra ngay bây giờ. Vì vậy, những từ ngữ này cho thấy lời hứa của Chúa Giê-su rất chắc chắn, đến mức Giăng có thể khẳng định như thể nó đã xảy ra rồi. Khi người cha quay về nhà vào ngày hôm sau, ông nhận thấy cơn sốt đã rời khỏi con trai vào cùng thời điểm mà Chúa Giê-su tuyên phán lời hứa của Ngài.

Câu chuyện này là một bằng chứng mạnh mẽ để ta tin vào Chúa Giê-su!

Nhiều người có thể làm các phép lạ ngày nay và nói rằng họ đến từ Đức Chúa Trời. Nhưng làm sao chúng ta biết khi nào một phép lạ là từ Chúa?

 

Phép lạ tiếp theo mà Giăng đề cập đến xảy ra tại Hồ Bê-tết-đa (Giăng 5:1- 9). Người ta tin rằng một thiên sứ đã khiến nước trong ao chuyển động. Khi điều đó xảy ra, họ nghĩ rằng người bệnh đầu tiên xuống nước sẽ được chữa lành. Nhiều người hy vọng được chữa lành. Họ tụ tập ở gần hồ này, chờ được xuống nước. Khi Chúa Giê-su đi lên Giê-ru-sa-lem, Ngài đi ngang qua ao, và thấy đám đông đang đợi ở đó.

Bạn hãy tưởng tượng hình ảnh tất cả những người này đang chờ được chữa lành. Chắc chắn một số người trong số họ bị bệnh rất nặng.

Đọc Giăng 5:1-9. Bất cứ ai ở cạnh hồ đều muốn được khỏe lại. Vậy tại sao Chúa Giê-su lại hỏi người bại liệt có muốn được chữa lành không (Giăng 5:6)?

Câu trả lời của người bại giúp ta hiểu rằng ông muốn được chữa lành. Vấn đề là ông tìm kiếm sự chữa lành không đúng chỗ. Đấng tạo ra đôi chân của con người đang đứng ngay trước mặt ông.

“Chúa Giê-su không yêu cầu người bại đang đau đớn này phải bày tỏ đức tin vào Ngài. Nhưng Chúa truyền cho người bại một mệnh lệnh: “Hãy đứng dậy, vác giường ngươi và đi”. Với đức tin, người bại tin lời Chúa Giê-su. Chân và tay của ông đã được bình phục. Người bại không nghi ngờ lời phán của Chúa Giê-su. Ông quyết định tuân theo mệnh lệnh Ngài. Tất cả các cơ bắp của người bại bắt đầu chuyển động. Ông đứng dậy một cách vững vàng. Người bại lúc này hiểu rằng mình đã được chữa lành…Chúa Giê-su không hề hứa với người bại này rằng Ngài sẽ giúp ông. Người bại có thể sẽ nghi ngờ và đánh mất cơ hội được chữa lành. Nhưng ông đã tin lời Chúa phán và hành động theo lời đó. Khi ông làm vậy, Chúa đã ban cho ông sức mạnh để đứng vững.” —Ellen G. White, The Desire of Ages, tr. 202, 203. 

Sau đó, Chúa Giê-su gặp người bại này trong đền thờ, Chúa phán cùng người ấy rằng: “Kìa, ngươi đã lành rồi, đừng phạm tội nữa, e có sự gì càng xấu xa xảy đến cho ngươi chăng” (Giăng 5:14). Tội lỗi có thể gây ra bệnh tật không? Nếu có, hãy giải thích câu trả lời của bạn. Đồng thời, tại sao ta phải hiểu rằng không phải lúc nào tội lỗi cũng sẽ gây ra mọi bệnh tật trong đời sống ta?

 

Dấu kỳ phép lạ không phải là bằng chứng cho thấy điều gì đó đến từ Chúa. Nhưng nếu phép lạ đến từ Chúa, mà ta lại từ chối thì ta đã phạm sai lầm nghiêm trọng.

Đọc Giăng 5:10-16. Ta có thể học được bài học gì từ lòng cứng cỏi của các nhà lãnh đạo Do Thái?

Chúa Giê-su vào đền thờ. Ở đó, Ngài gặp người mà Ngài đã chữa lành. Sau khi Chúa nói chuyện với ông, ông ta nói ngay với các nhà lãnh đạo Do Thái rằng Chúa Giê-su chính là Đấng đã chữa lành ông. Ta có thể nghĩ tin này sẽ khiến những người lãnh đạo ngợi khen Đức Chúa Trời. Nhưng chẳng phải vậy, họ có lý do khác liền, “Nhân đó dân Giu-đa bắt bớ Đức Chúa Jêsus, vì cớ Ngài làm những sự ấy trong ngày Sa-bát” (Giăng 5:16). Do đó, họ lên kế hoạch để giết hại Chúa Giê-su.

Họ chỉ muốn một người bệnh được chữa lành vào ngày Sa-bát trong trường hợp khẩn cấp. Trường hợp người đàn ông bị liệt 38 năm. Do đó, đối với họ, việc chữa lành cho người bại này là không phải trường hợp khẩn cấp. Ngoài ra, Chúa Giê-su có thực sự cần thiết phải ra lệnh bảo người bại vác giường của mình vào ngày Sa-bát không? Nếu ai đó thực sự được Chúa ban quyền năng để thực hiện một phép lạ chữa lành kỳ diệu, thì người này có nên biết rằng việc vác giường về nhà vào ngày Sa-bát lại là trái với quy tắc tôn giáo của người Do Thái? Tại sao Chúa Giê-su làm những điều này? Ngài muốn giúp họ hiểu những lẽ thật Kinh Thánh quan trọng hơn những luật lệ do con người đặt ra. Có những trường hợp, luật lệ của loài người đã bóp nghẹt đức tin chân chính. 

Đọc Giăng 9:1-16; Mác 3:22, 23; Ma-thi-ơ 12:9-14. Những câu chuyện này dạy gì về tấm lòng cứng cỏi của con người?

Tại họ có thể mù quáng đến vậy? Câu trả lời là vì họ có tấm lòng quá cứng cỏi. Họ tin một cách sai lầm rằng Đấng Cứu Thế sẽ giải thoát họ khỏi sự khống chế của người La Mã. Họ yêu thích quyền lực và từ chối không muốn để Chúa kiểm soát cuộc đời họ. Tất cả những điều này khiến họ bác bỏ lẽ thật Kinh Thánh rằng Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế.

Lời cảnh báo của Chúa Giê-su là gì? Đọc Giăng 5:38-42. Ta có thể học được gì từ lời phán của Chúa? Điều gì có thể khiến ta mù quáng, không ý thức được chân lý của Kinh Thánh mà ta cần phải biết và áp dụng trong đời sống mình? 

 

Phép lạ Chúa Giê-su thực hiện tại hồ Bê-tết-đa cho Giăng cơ hội tuyệt vời để giải thích Chúa Giê-su thật sự là ai. Giăng viết phép lạ trong chín câu Kinh Thánh. Sau đó Giăng dùng thêm khoảng 40 câu nữa (Giăng 5:19-47) để nói về Đấng đã làm phép lạ.

Tại sao các nhà lãnh đạo Do Thái buộc tội Chúa Giê-su khi Ngài làm phép lạ trong ngày Sa-bát? Xin đọc Giăng 5:16-18.

Giăng 5:18 có vẻ kỳ lạ hoặc khiến ta phân vân. Tại sao? Bởi vì câu này dường như nói Chúa Giê-su đã vi phạm ngày Sa-bát. Nhưng nếu xét kỹ Giăng 5:16-18, ta hiểu Chúa Giê-su nói “việc làm” của Ngài trong ngày Sabát cho thấy mối tương giao giữa Ngài với Đức Chúa Cha. Chúa không có ngừng làm việc chỉ vì đó là ngày Sa-bát. Ngài vẫn luôn chăm gìn cho mọi sự được sống động và vận hành trên cả vũ trụ. Tương tự, Chúa Giê-su, với tư cách là Đức Chúa Trời, vẫn làm việc vào ngày Sa-bát. Họ tấn công Chúa Giê-su vì họ cho rằng Ngài vi phạm ngày Sa-bát và vì Ngài nói Đức Chúa Trời là Cha Ngài. Nếu Đức Chúa Trời là Cha của Chúa Giê-su thì Ngài cũng như là Đức Chúa Trời.

Đọc Giăng 5:19-47. Chúa đã nói gì để giúp các nhà lãnh đạo hiểu được Ngài thực sự là ai? Phép lạ của Ngài làm sáng tỏ lẽ thật Kinh Thánh như thế nào? 

Chúa Giê-su giải thích việc làm của Ngài trong ba phần. Đầu tiên, Chúa giải thích mối tương giao chặt chẽ giữa Ngài với Đức Chúa Cha (Giăng 5:19- 30). Ngài phán rằng Ngài và Chúa Cha hành động cùng nhau trong sự hiệp một trọn vẹn. Vì vậy, Chúa Giê-su và Đức Chúa Cha có cùng một quyền năng để phán xét và đánh thức kẻ chết (Giăng 5:25-30).

Thứ hai, Chúa Giê-su nêu tên bốn “nhân chứng” có thể ủng hộ những điều Ngài phán về chính Ngài: (1) Giăng Báp-tít (Giăng 5:31-35); (2) Các phép lạ của chính Chúa Giê-su (Giăng 5:36); (3) Đức Chúa Cha (Giăng 5:37, 38); và (4) Kinh Thánh (Giăng 5:39). Mỗi “nhân chứng” này khẳng định hoặc cho thấy Chúa Giê-su thật sự là ai.

Cuối cùng, trong Giăng 5:40-47, Chúa Giê-su chỉ cho các nhà lãnh đạo Do Thái thấy tội lỗi của họ. Chúa Giê-su so sánh công việc của Ngài với những hành động ích kỷ của họ. Ngài nói rằng luật pháp Môi-se sẽ xét xử họ (Giăng 5:45-47). Niềm hy vọng của họ và tương lai của họ là đến từ những lời hứa của Môi-se. Điều đáng buồn là họ không hiểu những lời Môi-se viết.

Làm sao ta có thể cẩn thận để không rơi vào cạm bẫy về niềm tin của mình nơi Đức Chúa Trời, khi ta không hoàn toàn đầu phục Đấng Christ, cho dù có những giáo lý đúng như thế nào? Đem câu trả lời của bạn vào lớp Sa-bát. 

 

NGHIÊN CỨU BỔ TÚC: “Chúa Giê-su không hứa ban cho người bại bất kỳ sự trợ giúp thiêng liêng nào. Có thể là người đó đã bỏ lỡ cơ hội duy nhất để được chữa lành và dừng lại để nghi ngờ. Tuy nhiên, ông đã tiếp nhận lời của Chúa Giê-su, và khi làm vậy, ông đã được ban cho sức mạnh.

Ta có thể nhận được chữa lành tâm linh bởi cùng một đức tin. Tội lỗi khiến ta xa cách Chúa. Tâm linh ta bị tê liệt. Ta không thể sống một đời sống thánh khiết cũng như người bại liệt không thể bước đi được…Tất cả những ai đang buồn phiền và đang đấu tranh chống lại tội lỗi hãy nhìn lên. Đấng Cứu Thế đang cúi xuống với những người mà Ngài đã chuộc bằng chính huyết báu của mình. Đấng Cứu Thế phán với họ bằng tình yêu thương không thể diễn tả bằng lời: ‘Các con có muốn được chữa lành không?’ Chúa Giê-su muốn bạn hãy đứng dậy, Ngài muốn bạn được khỏe mạnh và bình an. Đừng chần chờ đến khi nào bạn cảm thấy bạn đã trở nên trọn vẹn. Hãy tin lời Ngài. Khi ấy những lời hứa của Đức Chúa Trời sẽ được ứng nghiệm. Hãy dâng lòng bạn cho Chúa Giê-su. Hãy quyết định phục vụ Ngài. Khi bạn hành động theo lời phán của Ngài, Chúa sẽ ban cho bạn sức mạnh. Bạn có thói quen xấu nào không? Bạn có phải là nô lệ cho một thói quen khiến bạn giống như một tù nhân cả về tinh thần lẫn thể xác? Chúa Giê-su có thể cứu giúp bạn. Ngài muốn ban cho bạn sự tự do. Chúa Giê-su sẽ ban sự sống cho tâm hồn đã chết vì tội lỗi. Ê-phê-sô 2:1. Chúa Giê-su sẽ giải phóng người nô lệ, cho người đó thoát khỏi sự yếu đuối và bất hạnh. Ngài sẽ bẻ gãy xiềng xích tội lỗi.” —Ellen G. White, The Desire of Ages, tr. 203.

“Chúa Giê-su bác bỏ lời tuyên bố rằng Ngài đã phạm tội khi Ngài khẳng định rằng Ngài là Đức Chúa Trời. Chúa Giê-su đã phán Ngài là Con Đức Chúa Trời. Chúa Giê-su và Đức Chúa Trời hoàn toàn hiệp một: Chúa Giê-su và Đức Chúa Trời có cùng tình yêu thương, cùng một quyết định và mọi kế hoạch.” —The Desire of Ages, tr. 208.

1. Đức tin mà người ta có nơi Chúa Giê-su đã giúp cho phép lạ chữa lành của Ngài được ứng nghiệm. Hành động của các nhà lãnh đạo Do Thái cho thấy lòng họ đầy nghi ngờ. Tại sao đặt những câu hỏi chân thành và lòng có sự hồ nghi thì không giống nhau? Tại sao rất quan trọng là ta phải biết hai điều này khác nhau?

2. Xem lại câu hỏi cuối cùng của ngày thứ Năm. Là những người Cơ Đốc Phục Lâm, tại sao ta phải cẩn thận với mối nguy hiểm này? Biết lẽ thật ngày Sa-bát, biết về tình trạng người chết…Nhưng tại sao biết những lẽ thật này không đủ để cứu ta? Điều gì cứu ta và bằng cách nào?

3. Hãy nghiên cứu kỹ Giăng 5:47. Ngày nay, nhiều người không tin rằng trận Lụt đã xảy ra. Họ không tin rằng Đức Chúa Trời đã tạo dựng bầu trời và trái đất trong sáu ngày. Những người này đang làm những gì mà Chúa Giê-su đã cảnh báo trong Giăng 5:47?