2023 - Q1 | QUẢN GIA CHO CHÚA

Bài Học 12, 18 — 24 Tháng 3, 2023

Phần Thưởng Cho Sự Trung Tín

CÂU GỐC: “Chủ nói với người rằng: Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm; ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi” (Ma-thi-ơ 25:21).

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Hê-bơ-rơ 11:6, Ê-sai 62:11, Rô-ma 6:23, Giăng 14:1–3, Khải huyền 21, Ma-thi-ơ 25:20–23, Rô-ma 8:16–18.

Tuy dầu chúng ta không bao giờ có thể “mua” được sự cứu rỗi, nhưng Kinh Thánh dùng niềm hy vọng của phần thưởng ấy như một động lực để giúp chúng ta sống trung tín như những kẻ, tuy chẳng xứng đáng, nhưng được nhận ân điển của Đức Chúa Trời. Vì nói cho cùng, bất cứ điều gì chúng ta nhận được, luôn luôn và chỉ duy là bởi ân điển của Đức Chúa Trời.

Như Đa-vít đã viết: “Luật pháp của Đức Giê-hô-va là trọn-vẹn, bổ linh hồn lại; Sự chứng cớ Đức Giê-hô-va là chắc chắn, làm cho kẻ ngu dại trở nên khôn ngoan. Giềng mối của Đức Giê-hô-va là ngay thẳng, làm cho lòng vui mừng; Điều răn của Đức Giê-hô-va trong sạch, làm cho mắt sáng sủa. Sự kính sợ Đức Giê-hô-va là trong sạch, hằng còn đến đời đời; Các mạng lịnh của Đức Giê-hô-va là chân thật, thảy đều công bình cả. Các điều ấy quí hơn vàng, thật báu hơn vàng ròng; Lại ngọt hơn mật, hơn nước ngọt của tàng ong. Các điều ấy dạy cho kẻ tôi tớ Chúa được thông hiểu; Ai gìn giữ lấy, được phần thưởng lớn thay” (Thi thiên 19:7–11).

Có nhiều chỗ trong Kinh Thánh, Chúa hứa rằng Ngài sẽ ban phần thưởng cho chúng ta khi Ngài tái lâm và đời sống tội lỗi nơi thế gian này sẽ vĩnh viễn không còn nữa.

Chúng ta đã được hứa những gì, và chúng ta có sự bảo đảm nào để đạt được những gì mình đã được hứa?

Đọc Hê-bơ-rơ 11:6. Câu này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Chúng ta nên đáp lại những gì nó nói như thế nào? Xem Khải huyền 22:12, Ê-sai 40:10 và Ê-sai 62:11. Tất cả các câu này dạy chúng ta điều gì?

Phần thưởng từ Đức Chúa Trời dành cho những con cái trung tín của Ngài thì không gì sánh bằng, và giống như nhiều điều thuộc linh khác, có thể nằm ngoài sự hiểu biết hữu hạn của chúng ta. “Ngôn ngữ loài người không đủ để mô tả phần thưởng của người công bình. Nó sẽ chỉ được biết đến với những người nhìn thấy nó. Không có tâm trí hữu hạn nào có thể hiểu được vinh quang của Thiên đàng của Đức Chúa Trời.” – Ellen G. White, The Great Controversy, trang 674.

Đức Chúa Giê-su kết luận trong bài giảng Các Phước Lành, là những lời mở đầu của Bài Giảng Trên Núi của Ngài, bằng những lời này: “Khi nào vì cớ ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước. Hãy vui vẻ, và nức lòng mừng rỡ, vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm; bởi vì người ta cũng từng bắt bớ các đấng tiên tri trước các ngươi như vậy” (Ma-thi-ơ 5:11, 12). Sau khi liệt kê những anh hùng đức tin trong Hê-bơ-rơ 11, tác giả sách này bắt đầu chương tiếp theo giải thích lý do tại sao Đức Chúa Giê-su sẵn sàng chết trên thập tự giá.

“Thế thì, vì chúng ta được nhiều người chứng kiến vây lấy như đám mây rất lớn, chúng ta cũng nên quăng hết gánh nặng và tội lỗi dễ vấn vương ta, lấy lòng nhịn nhục theo đòi cuộc chạy đua đã bày ra cho ta, nhìn xem Đức Chúa Jêsus, là cội rễ và cuối cùng của đức tin, tức là Đấng vì sự vui mừng đã đặt trước mặt mình, chịu lấy thập tự giá, khinh điều sỉ nhục, và hiện nay ngồi bên hữu ngai Đức Chúa Trời” (Hê-bơ-rơ 12:1, 2).

Tuy vậy, được ban thưởng vì sự trung tín mình không giống như được cứu bởi việc làm. Ai trong chúng ta, hoặc trong số bất kỳ nhân vật nào trong Kinh Thánh, đã làm việc đủ tốt để xem là có công lao trước mặt Đức Chúa Trời? Tất nhiên là không. Đó là lý do hoàn toàn vì sao chúng ta cần thập tự giá. Nếu chúng ta có thể tự cứu mình bằng việc làm, thì Đức Chúa Giê-su đã chẳng bao giờ cần phải bước đến thập tự giá. Chỉ vì ân điển mà thôi! “Nhưng nếu bởi ơn thì chẳng phải bởi việc làm nữa; bằng chẳng, thì ơn không còn phải là ơn” (Rô-ma 11:6). Thay vào đó, phần thưởng chỉ là kết quả của những gì Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta và trong chúng ta.

Làm thế nào chúng ta hiểu được sự khác biệt giữa sự cứu rỗi bởi ân điển và phần thưởng tùy theo việc làm? Mang câu trả lời của bạn đến lớp vào ngày Sa-bát.

Là con người (và dù muốn hay không), một sự vĩnh cửu đang chờ đợi chúng ta. Và theo Kinh Thánh, sự vĩnh cửu này sẽ đến ở một trong hai biểu hiện, ít nhất là đối với mỗi cá nhân chúng ta: sự sống đời đời hoặc sự chết đời đời. Nó là vậy. Không có chỗ đứng giữa. Không hàng hai, một chút của bên này hay bên kia. Thay vào đó, nó là hoặc sống hoặc chết. Đây thực sự là một trường hợp hoặc có tất cả hoặc mất tất cả.

Đọc Rô-ma 6:23 và Giăng 3:16. Những lựa chọn nào được trình bày cho chúng ta?

Thật khó để tưởng tượng ra còn có hai sự lựa chọn nào rõ ràng hơn hoặc thật khác biệt hơn!
Rất có thể nếu bạn đang đọc những dòng chữ này, bạn đã chọn cuộc sống vĩnh cửu, hoặc chắc chắn bạn đang nghĩ về nó. Duy chỉ có Đức Chúa Trời là Đấng có khả năng để làm bất cứ điều gì Ngài nói Ngài có thể làm —hầu thực hiện mọi lời hứa của Ngài. Phần của chúng ta chỉ đơn giản là tin Ngài, dựa vào công đức của Đức Chúa Giê-su, và bằng đức tin, vâng theo Lời Ngài.

Đọc Giăng 14:1–3. Lời khuyên của Chúa cho chúng ta trong câu 1 là gì và Ngài hứa điều gì với chúng ta trong câu 2 và 3?

Trong những ngày cuối cùng của chức vụ của mình trên đất, Đức Chúa Giê-su đã ban cho các môn đồ những lời đầy hy vọng và khích lệ. Những lời này sẽ vực dậy tinh thần của họ trong những lúc chán nản và thử thách. Chúng ta cũng sẽ được an ủi bởi những lời này. Đức Chúa Giê-su từ trời xuống, trở về trời và đã hứa với chúng ta, “Ta sẽ trở lại và đem các ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu, thì các ngươi cũng ở đó.”

Và, có lẽ hơn bất cứ điều gì khác, cái chết của Đấng Christ trên thập tự giá khi Ngài đến thế gian này lần thứ nhất là sự bảo đảm lớn nhất của chúng ta về sự hồi lai của Ngài, vì nếu không có Sự Tái Lâm, thì sự giáng thế lần thứ nhất của Ngài có ích lợi gì? Như chúng ta chắc chắn rằng Đức Chúa Giê-su đã chết thay cho chúng ta trên thập tự giá, chúng ta có thể chắc chắn rằng, phải, như Ngài đã hứa: “Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu, thì các ngươi cũng ở đó” (Giăng 14:3).

Hãy tập trung nhiều hơn vào ý tưởng rằng sự giáng thế lần thứ nhất của Đấng Christ là điều bảo đảm cho sự tái lâm của Ngài. Điều gì đã xảy ra ở lần giáng trần thứ nhất khiến lần thứ hai trở thành một lời hứa mà chúng ta có thể tin tưởng?

Kinh Thánh mô tả về Giê-ru-sa-lem Mới là điều mà Áp-ra-ham nhìn thấy bằng đức tin. “Vì người chờ đợi một thành có nền vững chắc, mà Đức Chúa Trời đã xây cất và sáng lập.” (Hê-bơ-rơ 11:10). Giê-ru-sa-lem Mới là kiệt tác của Đức Chúa Trời, được xây dựng cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ các điều răn của Ngài. Thành Giê-ru-sa-lem Mới sẽ là nơi cư ngụ của những con cái trung tín của Đức Chúa Trời ở trên trời trong suốt một thiên niên kỷ và sau đó, trên địa cầu mới cho đến đời đời. Một tin mừng cho những người trong vòng chúng ta, nhất là những người không thích dọn đồ đạc hoặc di chuyển. Đức Chúa Trời sẽ chu toàn mọi việc. Sứ đồ Giăng nói rằng mình đã nhìn thấy thành ấy. “Tôi cũng thấy thành thánh, là Giê-ru-sa-lem mới, từ trên trời, ở nơi Đức Chúa Trời mà xuống, sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình” (Khải huyền 21:2).

Đọc Khải huyền 21. Có những điều nào được hứa cho chúng ta?

Ở đây có quá nhiều điều mà tâm trí của chúng ta, vì đã bị tổn hại bởi tội lỗi và chỉ biết đến một thế giới đầy tội lỗi đã sụp đổ, không thấu hiểu hết. Nhưng những gì chúng ta có thể hiểu thì tràn đầy niềm hy vọng.

Thứ nhất, giống như Đức Chúa Giê-su đã ở với chúng ta trong thế giới sa đọa này khi Ngài đến thế gian trong hình hài của loài người, thì Ngài sẽ ở với chúng ta trong thế giới mới. Quả là một đặc ân dành cho những ai được nhìn thấy Đức Chúa Giê-su kề cận bên mình! Chúng ta sẽ có cơ hội đó một lần nữa, khác chăng là lần này, sẽ không có bức màn tội lỗi làm sai lệch những gì chúng ta thấy.

Vậy thì, làm sao chúng ta, những người chỉ biết có nước mắt và đau khổ, khóc lóc và đau đớn hiểu được một trong những lời hứa vĩ đại nhất trong toàn bộ Kinh Thánh: “Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi” (Khải huyền 21:4)? Tất cả những “sự thứ nhất” sẽ qua đi, đó là những điều mà lẽ ra không bao giờ nên có, sẽ không còn nữa.

Ngoài ra, tuôn trào từ ngai của Đức Chúa Trời là dòng sông thuần khiết của sự sống, và ở hai bên sông là cây sự sống. Ngôi của Đức Chúa Trời sẽ ở đó, và “chúng sẽ được thấy mặt Chúa” (Khải huyền 22:4). Một lần nữa, những người được cứu chuộc sẽ sống trong sự gần gũi với Đức Chúa Trời mà phần lớn, chúng ta không có ngày nay.

Đọc Khải huyền 21:8, về số phận của những người sẽ phải đối mặt với cái chết thứ hai. Tội lỗi nào trong số những người được miêu tả ở đó không thể được Chúa Giê-su tha thứ? Vậy tại sao những người này lại bị mất khi một số người đã làm những điều tương tự được cứu? Sự khác biệt quan trọng giữa hai nhóm này là gì?

Khi Đức Chúa Giê-su đã gần xong chức vụ Ngài trên đất, các môn đồ của Ngài đến gặp Ngài một cách riêng tư và hỏi, “Xin Chúa phán cho chúng tôi biết lúc nào những sự đó sẽ xảy ra? Và có điềm gì chỉ về sự Chúa đến và tận thế” (Ma-thi-ơ 24:3). Sau đó, Đức Chúa Giê-su dành nguyên hai đoạn để trả lời câu hỏi của họ. Ma-thi-ơ 24 kể về những dấu hiệu trong thế giới xung quanh chúng ta, chẳng hạn như chiến tranh, thiên tai, v.v … Sau đó, Ma-thi-ơ 25 nói về tình trạng trong hội thánh ngay trước khi Chúa Giê-su tái lâm. Các tình trạng này được minh họa bằng ba câu chuyện, một trong số đó là câu chuyện ngụ ngôn về các tài năng (ta-lâng), nói về việc dân Ngài đã sử dụng những ân tứ mà Đức Chúa Trời ban cho họ như thế nào.

Đọc Ma-thi-ơ 25:14–19. Ai là người đi đến một đất nước xa? Người giao phó tài sản mình cho ai? “tính sổ” có nghĩa là gì (xin xem Ma-thi-ơ 25:19)?

Đôi khi chúng ta nghĩ về tài năng như những món quà tự nhiên như ca hát, diễn thuyết, v.v., nhưng trong câu chuyện tương tự về các nén bạc trong Lu-ca 19:12–24, tiền bạc và cách quản lý nó được nêu cụ thể. Ellen G. White cũng cho biết, “Tôi được cho thấy rằng câu chuyện ngụ ngôn về các ta-lâng vẫn chưa được hiểu đầy đủ. Bài học quan trọng này đã được Chúa dạy cho các môn đồ mình để mang lợi ích đến cho các tín đồ Đấng Christ đang sống trong những ngày cuối cùng. Và các ta-lâng này không chỉ thể hiện cho các khả năng rao giảng và hướng dẫn bằng lời của Đức Chúa Trời. Câu chuyện ngụ ngôn áp dụng cả về những phương tiện vật chất mà Đức Chúa Trời đã giao phó cho dân Ngài.”—Testimonies to the Church, quyển 1, trang 197.

Đọc Ma-thi-ơ 25:20–23. Đức Chúa Trời nói gì với những quản gia trung tín? “hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi” có nghĩa là gì (Ma-thi-ơ 25:23)?

Rất bình thường và tự nhiên khi chúng ta nghĩ rằng người kia có nhiều tài năng hơn chúng ta và do đó có trách nhiệm hơn với Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, trong câu chuyện này, người chỉ có một tài năng—ít tiền nhất —lại tỏ ra không trung tín và đánh mất thiên đàng. Thay vì nghĩ đến trách nhiệm của người khác, chúng ta hãy tập trung vào những gì Đức Chúa Trời đã giao phó cho MÌNH và cách chúng ta có thể dùng nó cho sự vinh hiển của Ngài.

Bạn nghĩ mình sẽ như thế nào khi Chúa đến và “tính sổ” với bạn?

Sau khi Phao-lô cải đạo, ông hoàn toàn dấn thân vào chính nghĩa của Đấng Christ. Vốn có trình độ học vấn cao và đầu óc nhạy bén, trong mắt nhìn của người thế gian, ông có thể đã rất thành công. Như Môi-se, Phao-lô đã chọn sự gánh chịu chung với các con cái trung tín của Đức Chúa Trời và vì lợi ích của Đấng Christ. Ông phải chịu đánh đập, ném đá, tù đày, đắm tàu, đói, lạnh và nhiều điều khác như được ghi lại trong 2 Cô-rinh-tô 11:24–33. Làm thế nào mà ông có thể chịu đựng tất cả những điều này?

Đọc Rô-ma 8:16–18. Làm thế nào việc biết rằng mình là con của Đức Chúa Trời lại là một yếu tố giữ lòng trung tín của ông?

Đối với Phao-lô phần thưởng cho những kẻ trung tín là điều cao quý nhất, và đó là điều khiến ông phấn khởi khi chịu đau khổ vì Đấng Christ. Ông đã viết từ trong tù: “Hỡi anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích, nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Phi-líp 3:13, 14).

Đọc 1 Ti-mô-thê 6:6–12, chúng ta đã xem qua nhưng rất đáng để đọc lại. Sứ điệp quan trọng trong những câu này là gì, đặc biệt là đối với chúng ta là Cơ Đốc nhân?

Theo quan điểm Kinh Thánh, thịnh vượng là có những gì cần yếu khi chúng ta cần. Nó không phải là sự tích lũy của cải. Sự thịnh vượng cũng đang tuyên bố lời hứa của Đức Chúa Trời trong Phi-líp 4:19: “Đức Chúa Trời tôi sẽ làm cho đầy đủ mọi sự cần dùng của anh em y theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Đức Chúa Jêsus Christ.” Cuối cùng, thịnh vượng là để biết ơn những gì bạn có trong Chúa và tin cậy nơi Ngài trong mọi sự.

Đức Chúa Trời không hứa với con cái Ngài rằng hết thảy họ sẽ giàu có về của cải trên thế gian này. Trên thực tế, Ngài nói rằng tất cả những ai sống cuộc sống tin kính sẽ bị bắt bớ. Điều mà Chúa ban cho con cái Ngài thì tốt hơn bất kỳ của cải thế gian nào. Chúa phán, “Ta sẽ đáp ứng mọi nhu cầu của các ngươi, và bất cứ nơi nào các ngươi đi, Ta sẽ ở cùng ngươi.” Rồi cuối cùng, Ngài sẽ ban cho những kẻ trung tín của Ngài sự giàu có thật, trách nhiệm và sự sống đời đời. Thật là một phần thưởng tuyệt vời!

Gần cuối đời, Phao-lô có thể nói, “Về phần ta, ta đang bị đổ ra làm lễ quán, kỳ qua đời của ta gần rồi. Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin. Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta; Chúa là quan án công bình, sẽ ban mão ấy cho ta trong ngày đó, không những cho ta mà thôi, nhưng cũng cho mọi kẻ yêu mến sự hiện đến của Ngài” (2 Ti-mô-thê 4:6–8). Cầu mong cho tất cả chúng ta, nhờ ân điển của Đức Chúa Trời, có thể nói điều giống nhau và với cùng một sự bảo đảm.

Đây là hình ảnh một hội thánh như là một gia đình và mỗi thành viên là những người quản gia trung thành đối với công việc của Đức Chúa Trời trên đất.

Viễn Tượng cho Mỗi Hội Thánh Cơ Đốc Phục Lâm Toàn Thế Giới trong Vai Trò Quản Gia cho Đức Chúa Trời

Một lúc nào đó trong tương lai; các mục sư và các lãnh đạo hội thánh địa phương sẽ thành công trong việc tạo ra một môi trường có ý thức quản gia trong hội thánh. Họ đã giảng dạy, đào tạo, hỗ trợ và khuyến khích toàn gia đình hội thánh trong việc quản lý tài chính theo Kinh Thánh.

Mọi người đang áp dụng các nguyên tắc Kinh Thánh vào cuộc sống của họ. Họ ngày càng rộng rãi, thường xuyên tiết kiệm cho những chi khoản bất ngờ, và thoát ra khỏi sự ràng buộc của nợ nần tiêu xài.

Lối sống của họ được bày tỏ sự điều độ, kỷ luật và thỏa lòng. Tiền bạc không còn là một thần mà họ bận bịu chạy theo dầu họ thờ lạy Đức Chúa Trời, và họ đang ngày càng tăng trưởng trong mối tương quan với Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa của họ.

Mỗi buổi sáng ngày Sa-bát và mọi người đến Nhà Chúa để phục vụ. Trong phong thái của họ là một cảm giác yên bình—không có những sự lo âu về các vấn đề tài chính, mà là một niềm mãn nguyện và lòng biết ơn lan tỏa.

Sự xung đột tiền bạc trong hôn nhân phần lớn đã được loại bỏ. Họ bước vào sự thờ phượng với cảm giác chào đón và mong đợi sự hiện diện và công việc của Đức Chúa Trời ở giữa họ.

Các mục vụ của nhà thờ được tài trợ hoàn toàn và nó có sức lan tỏa mạnh mẽ đến nhiều người. Nó nới rộng tình yêu của Đấng Christ cho những ai đang cần qua các phương cách hữu hình.

Ngân quỹ đã được cung cấp để tài trợ và duy trì các cơ sở của hội thánh cũng như hỗ trợ cho các mục vụ một cách hào phóng.

Câu hỏi đặt ra cho tất cả chúng ta là, “Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta phải làm gì với bất cứ nguồn lực nào mà Ngài đã giao phó cho chúng ta?”

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN:

  1. Trong lớp, hãy nói về câu hỏi làm thế nào chúng ta hiểu được hai lời dạy rất rõ ràng trong Kinh Thánh: sự cứu rỗi bởi đức tin và phần thưởng tùy theo việc làm. Làm thế nào để chúng ta hài hòa hai khái niệm này?
  2. Tại sao học cách thỏa lòng với những gì chúng ta có bây giờ không có nghĩa là chúng ta không thể tìm cách cải thiện tình hình tài chính của mình? Đó là, tại sao những ý tưởng này không nhất thiết phải xung đột?
  3. Chắc chắn sự vĩnh cửu đang chờ đợi chúng ta. Những lựa chọn nào mà chúng ta đưa ra bây giờ, ngay cả những lựa chọn “nhỏ”, sẽ giúp xác định nơi nào chúng ta sẽ đến để ở đời đời?
Bài Học 11, 11 — 17 Tháng 3, 2023

Quản Lý Trong Thời Kỳ Khó Khăn

CÂU GỐC: “Hãy dâng sự cảm tạ làm của lễ cho Đức Chúa Trời, và trả sự hứa nguyện ngươi cho Đấng Chí Cao; Trong ngày gian truân hãy kêu cầu cùng ta: Ta sẽ giải cứu ngươi, và ngươi sẽ ngợi khen ta” (Thi thiên 50:14, 15).

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: 2 Cô-rinh-tô 20:1–22, 1 Cô-rinh-tô 21:1–14, 2 Phi-e-rơ 3:3–12, 1 Giăng 2:15–17, Khải huyền 13:11–17.

Đôi khi thế giới của chúng ta dường như đang quay cuồng quá nhanh, mọi sự như văng đổ tung tóe: chiến tranh, đổ máu, tội phạm, vô luân, thiên tai, đại dịch, kinh tế không chắc chắn, tham nhũng, chính trị thối nát, v.v. Có một sự thôi thúc mạnh mẽ đối với các cá nhân và gia đình trước tiên phải nghĩ đến sự sống còn của chính họ. Do đó, người ta đã suy nghĩ nhiều về việc tìm kiếm sự an toàn trong những thời điểm không chắc chắn này, tất nhiên, điều này là dễ hiểu.

Tư tưởng của chúng ta mỗi ngày bị những khó khăn trong cuộc sống chiếm rất nhiều tâm trí. Với những khoản nợ phải trả, con cái phải nuôi, tài sản để duy trì, thật mất thời gian và suy nghĩ. Và, tất nhiên, chúng ta cần quần áo, thức ăn và nơi ở. Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giê-su đề cập đến những nhu cầu rất cơ bản này và sau đó tuyên bố, “Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi. Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” (Ma-thi-ơ 6:32, 33).

Giữa những hồi khó khăn và thử thách, chúng ta cần nương tựa vào Chúa hơn bao giờ hết. Có một số bước cụ thể, dựa trên các nguyên tắc Kinh Thánh, mà chúng ta nên làm theo.

Đọc 2 Sử Ký 20:1–22. Chúng ta có thể rút ra những nguyên tắc thiêng liêng quan trọng nào từ câu chuyện này cho bản thân trong bất cứ cuộc đấu tranh nào mà chúng ta phải đối mặt?

Vào cuối triều đại của Giô-gia-phát, vương quốc Giu-đa đã bị xâm lược. Giô-gia-phát là một người can đảm và dũng cảm. Trong nhiều năm, ông đã củng cố quân đội và các thành phố kiên cố của mình. Ông ta đã chuẩn bị kỹ lưỡng để đối đầu hầu như bất kỳ kẻ thù nào; tuy nhiên trong cơn khủng hoảng này, ông đã không đặt niềm tin vào sức mạnh của mình mà vào quyền năng của Đức Chúa Trời. Ông đã đặt mình để tìm kiếm Chúa, và ông đã tuyên bố một sự kiêng ăn trong toàn thể Giu-đa. Tất cả mọi người tụ tập lại với nhau trong sân đền thờ, như Sa-lô-môn đã cầu nguyện rằng họ sẽ làm như vậy nếu đối mặt với nguy hiểm. Tất cả những người nam của Giu-đa đứng trước mặt Chúa với vợ và con cái của họ. Họ cầu nguyện rằng Đức Chúa Trời sẽ làm cho kẻ thù của họ bối rối và rằng danh Ngài sẽ được tôn vinh. Bấy giờ, nhà vua cầu nguyện: “Vì nơi chúng tôi chẳng còn sức lực gì đối địch cùng đám quân đông đảo nầy đương đến hãm đánh chúng tôi, và chúng tôi cũng không biết điều gì mình phải làm; nhưng con mắt chúng tôi ngửa trông Chúa!” (2 Sử Ký 20:12).

Sau khi họ phó thác mình cho Đức Chúa Trời theo cách này, Thánh Linh của Chúa đến trên một người của Đức Chúa Trời, người phán rằng: “Chớ sợ, chớ kinh hãi bởi cớ đám quân đông đảo này: Vì trận giặc nầy chẳng phải của các ngươi đâu, bèn là của Đức Chúa Trời . . . Trong trận nầy các ngươi sẽ chẳng cần gì tranh chiến; hãy dàn ra, đứng yên lặng mà xem thấy sự giải cứu của Đức Giê-hô-va ở cùng các ngươi. Hỡi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem! Chớ sợ, chớ kinh hãi; ngày mai, hãy đi ra đón chúng nó, vì Đức Giê-hô-va ở cùng các ngươi” (2 Sử Ký 20:15-17).

Vì vậy, sáng sớm hôm sau, nhà vua tập họp dân chúng, với dàn hợp xướng Lê-vi ở phía trước để hát ngợi khen Đức Chúa Trời. Rồi ông khuyên dân chúng: “Khá tin cậy Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, thì các ngươi sẽ vững chắc; hãy tin các đấng tiên tri Ngài, thì các ngươi sẽ được may mắn” (2 Sử Ký 20:20). Sau đó, dàn hợp xướng bắt đầu hát, và kẻ thù của họ tiêu diệt lẫn nhau, và “chẳng có một ai thoát khỏi được” (2 Sử Ký 20:24). Dân Giu-đa mất ba ngày chỉ để thu thập chiến lợi phẩm của trận chiến, và vào ngày thứ tư, họ trở về Giê-ru-sa-lem, vừa đi vừa hát.

Dĩ nhiên, Đức Chúa Trời đã giải cứu họ cũng chính là Đức Chúa Trời mà chúng ta yêu mến và tôn thờ, và quyền năng của Ngài ngày nay cũng vĩ đại như hồi đó. Đối với chúng ta, thử thách là tin cậy vào Ngài và sự dẫn dắt của Ngài.

Đọc 2 Sử Ký 20:20. Câu này nên có ý nghĩa đặc biệt nào đối với tín hữu Cơ Đốc Phục Lâm?

Vua Đa-vít lẽ ra phải biết rõ hơn. Vua lẽ ra phải biết từ kinh nghiệm của người bạn thân nhất của mình là Giô-na-than rằng khi bạn ở trong mối quan hệ giao ước với Đức Chúa Trời, việc bạn có ít người hay nhiều người không quan trọng; vì Chúa có thể cho bạn chiến thắng. Trong 1 Sa-mu-ên 14:1–23, Kinh Thánh ghi lại câu chuyện về cách con trai của Sau-lơ, Giô-na-than và người vác vũ khi của ông ta đã đánh bại toàn bộ đồn trú của quân Phi-li-tin—với sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời. Nhưng bất chấp kinh nghiệm này và nhiều kinh nghiệm khác trong lịch sử dân sự của Đức Chúa Trời, khi thời kỳ khó khăn đến với Vua Đa-vít, vua đã để cho Sa-tan cám dỗ và tin tưởng vào sức mạnh và sự khéo léo của mình.

Đọc 1 Sử Ký 21:1–14. Tại sao Đa-vít quyết định kiểm kê đánh số dân Y-sơ-ra-ên hay đếm số binh lính của mình? Tại sao vị tướng chỉ huy của vua là Giô-áp đã khuyên chống lại việc này?

Hãy lưu ý rằng đó là ý tưởng của Sa-tan để đếm số binh lính. Nó dụ vua Đa-vít tin cậy vào sức riêng của mình hơn là phụ thuộc vào sự quan phòng của Đức Chúa Trời trong việc phòng thủ bảo vệ mình. Giô-áp, người lãnh đạo quân đội của Y-sơ-ra-ên, đã cố gắng thuyết phục Đa-vít không đánh số Y-sơ-ra-ên vì ông ta đã thấy Đức Chúa Trời làm việc thay thế cho Y-sơ-ra-ên, nhưng Đa-vít yêu cầu tiến hành việc đánh số. Hành động của ông đã mang lại tai họa cho quốc gia, như các câu này cho thấy.

Không ai đã từng tin cậy Chúa một cách vô ích. Bất cứ khi nào bạn chiến đấu cho Chúa, hãy chuẩn bị cho mình. Và cũng chuẩn bị tốt. Có một câu trích dẫn, được cho là của một nhà cai trị người Anh, Oliver Cromwell (1599–1658), người trước khi ra trận đã nói với quân đội của mình rằng: “Hỡi các thanh niên của ta, hãy đặt niềm tin vào Chúa và giữ cho bột (thuốc súng) của bạn khô ráo!” Nói cách khác, hãy làm tất cả những gì bạn có thể để thành công, nhưng cuối cùng, hãy nhận ra rằng chỉ có Chúa mới có thể cho bạn chiến thắng.

Trong bối cảnh của cuộc sống ngày nay, chúng ta thường rất dễ tin tưởng vào quyền lực của chính phủ hoặc vào sức lượng tài chánh của mình, nhưng trong mọi cuộc khủng hoảng được đề cập trong Kinh Thánh, khi dân chúng tin cậy vào Đức Chúa Trời, thì Ngài đã tôn trọng sự tin tưởng của họ và cung cấp cho họ.

Chúng ta nên sử dụng thời gian hiện tại để hòa thuận với Chúa, thoát khỏi nợ nần và hào phóng với những gì chúng ta đã được ban cho. Theo lời của bài hát phúc âm xưa, “Nếu trước đây chúng ta có bao giờ cần Chúa, thì chúng ta chắc chắn cần Ngài lúc này.”

Làm thế nào để chúng ta đạt được sự cân bằng giữa việc thực hiện những gì trong phạm vi và khả năng mình có thể làm, chẳng hạn, để được đảm bảo về tài chính, mà đồng thời, cũng tin cậy nơi Chúa trong mọi sự?

Là tín hữu Cơ Đốc Phục Lâm, chúng ta nên làm gì trong những thời kỳ khó khăn? Chúng ta có hạ mức sống mình xuống tình trạng sinh tồn không? Không, trên thực tế, điều ngược lại là đúng. Bởi vì chúng ta biết rằng ngày tận thế và sự tái lâm của Đức Chúa Giê-su Christ đang đến gần, nên chúng ta cần sử dụng tài sản của mình cách hợp lý để nói cho người khác tin mừng về phúc âm và những gì Đức Chúa Trời đã chuẩn bị cho những ai yêu mến Ngài. Chúng ta hiểu rằng một ngày nào đó, mọi thứ trên trái đất này sẽ sớm bị thiêu rụi.

Đọc 2 Phi-e-rơ 3:3–12. Phi-e-rơ đang nói gì với chúng ta bằng những lời này?

Qua Lời Chúa, chúng ta hiểu rằng Ngài không gửi những chiếc xe vận tải để chuyển đưa tài sản của chúng ta lên thiên đàng. Tất cả sẽ bị thiêu rụi trong lửa khi mà mọi dấu vết của tội lỗi và điều ác sẽ biến mất vĩnh viễn, ngoại trừ những vết sẹo trên tay của Đấng Christ.

Vậy, chúng ta nên làm gì với tài sản của mình? “Chính lúc này mỗi chúng ta phải sử dụng tài sản của mình thay vì tích trữ chúng. Vì bạn và tôi sắp sửa được dự phần vào nước thiên đàng. Nên chúng ta đừng sống như là những người trên đất này, nhưng phải sẵn sàng mọi thứ một cách gọn gàng nhất có thể.”—Ellen G. White, Counsels on Stewardship, trang 59.

Dĩ nhiên, những lời bà viết đã hơn một thế kỷ trước! Nhưng nguyên tắc chính của chúng vẫn còn nguyên: thời gian thì luôn ngắn ngủi, bởi vì cuộc đời chúng ta là ngắn ngủi. 60 năm, 80 năm hoặc 100 năm (nếu bạn có gen tốt và sống thực hành sức khỏe tốt) khi so với vĩnh cửu thì là bao? Cuộc sống của bạn có thể kết thúc trước khi bạn đọc xong bài học của tuần này và điều tiếp theo bạn sẽ biết là sự tái lâm của Đức Chúa Giê-su.

Là Cơ Đốc nhân Cơ Đốc Phục Lâm, chúng ta phải luôn sống trong ánh sáng của sự vĩnh cửu. Vâng, tất nhiên, chúng ta cần phải làm việc chăm chỉ để cung cấp cho bản thân và gia đình mình; và nếu chúng ta đã được ban phước cho sự giàu có, thì không có gì sai khi tận hưởng nó ngay bây giờ, miễn là chúng ta không trở nên tham lam, và rộng rãi sự giàu có mình đối với người nghèo. Tuy nhiên, chúng ta phải luôn nhớ rằng bất cứ điều gì chúng ta tích lũy được ở đây đều là nhất thời, phù du, và nếu chúng ta không cẩn thận, nó có khả năng làm băng hoại đời sống thiêng liêng.

Nếu bạn biết Đức Chúa Giê-su sẽ đến trong vòng mười năm nữa, bạn sẽ thay đổi cuộc đời mình như thế nào? Nếu Chúa đến trong năm năm, hay ba năm?

Những câu chuyện ngụ ngôn và lời dạy của Đức Chúa Giê-su, những câu chuyện về các nhân vật trong Kinh Thánh và lời khuyên của Ellen G. White đều cho thấy rõ ràng rằng không có sự cam kết nửa chừng với Đấng Christ. Hoặc chúng ta đứng về phía Chúa, hoặc chúng ta không.

Khi được một thầy thông giáo hỏi điều răn nào là lớn nhất, Đức Chúa Giê-su trả lời: “Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức mà kính mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi” (Mác 12:30). Khi chúng ta dâng tất cả cho Đấng Christ, thì không còn gì cho chủ nhân khác. Đó là cách duy nhất mà thôi.

Đọc Ma-thi-ơ 6:24. Kinh nghiệm của riêng bạn về sự thật của những lời này là gì?

Hãy lưu ý, Đức Chúa Giê-su không nói rằng việc phụng sự Đức Chúa Trời và tiền bạc cùng một lúc là điều khó khăn hay bạn cần phải cẩn thận trong cách phục vụ cả hai. Nhưng rõ ràng Ngài nói rằng điều đó không thể thực hiện được. Đơn giản là thế! Ý tưởng này phải làm tâm hồn chúng ta sợ hãi và run rẩy (Phi-líp 2:12).

Đọc 1 Giăng 2:15–17. Ba điều này được thể hiện như thế nào trong thế giới của chúng ta, và tại sao sự nguy hiểm mà chúng thể hiện đôi khi lại tinh vi hơn chúng ta nhận ra?

Không có gì ngạc nhiên khi Phao-lô viết, “Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất;” (Cô-lô-se 3:2). Tất nhiên, nói thì dễ hơn làm, bởi vì mọi thứ của thế giới đều ở ngay trước mắt chúng ta mỗi ngày. Sức lôi cuốn của “tất cả những gì có trên mặt đất” rất mạnh mẽ; lực kéo cho niềm thỏa lòng ngay lập tức luôn ở đó, thì thầm bên tai chúng ta hoặc kéo tay áo của chúng ta, hoặc cả hai. Ngay cả những Cơ Đốc nhân trung thành nhất cũng có lúc cảm thấy yêu “các sự ở dưới đất” sao? Ngay cả khi chúng ta biết rằng một ngày nào đó tất cả sẽ kết thúc, chúng ta vẫn cảm thấy có sức hút, phải không? Tuy nhiên, tin mừng là chúng ta không cần phải để nó kéo chúng ta xa khỏi Chúa.

Đọc 2 Phi-e-rơ 3:10–14. Những gì ông nói ở đây sẽ ảnh hưởng như thế nào đến cách chúng ta sống, kể cả khi chúng ta làm gì với các nguồn lực của mình?

Kinh Thánh vẽ một bức tranh đau thương về thế giới trước khi Đức Chúa Giê-su tái lâm. Đa-ni-ên nói về “Lúc đó sẽ có tai nạn, đến nỗi từ khi mới có nước đến kỳ đó cũng chẳng có như vậy bao giờ” (Đa-ni-ên 12:1). So sánh với những thời hoạn nạn của quá khứ mà Đa-ni-ên đã từng trải, điều ông đề cập đến ở đây hẳn là phải rất tệ.

Sách Khải huyền cũng chỉ ra những thời điểm khó khăn trước khi Đức Chúa Giê-su tái lâm.

Đọc Khải huyền 13:11–17. Những khó khăn về tài chính có liên quan như thế nào với sự bắt bớ trong thời kỳ cuối cùng?

Bạn không thể mua hoặc bán? Có bao nhiêu phần trăm cuộc sống của chúng ta ngày nay xoay quanh việc mua và bán? Theo một nghĩa nào đó, công việc của chúng ta là bán thời gian, kỹ năng và hàng hóa của mình cho những ai muốn mua chúng. Không thể mua hoặc bán có nghĩa là không thể hoạt động trong xã hội. Áp lực đối với những người vẫn trung tín khi ấy sẽ rất lớn. Thêm vào đó, khi bạn càng có nhiều tiền, bạn càng có nhiều cổ phần trên thế giới này, ít nhất là về của cải vật chất, thì chắc chắn, áp lực phải tuân thủ sẽ càng mạnh mẽ hơn.

Thế thì chúng ta phải chuẩn bị như thế nào? Chúng ta chuẩn bị lúc này đây, bằng cách đoan chắc rằng nhờ ân điển của Đức Chúa Trời mà chúng ta không phải là nô lệ cho tiền bạc của mình, cho những thứ của thế gian. Nếu bây giờ chúng ta không bị ràng buộc với chúng, thì khi đến lúc phải từ bỏ chúng hầu giữ lòng trung tín mình, việc buông rơi chúng sẽ không khó khăn.

Đọc Phục truyền 14:22 và phần cuối của câu 23. Dân sự của Đức Chúa Trời phải làm gì với sự gia tăng hoặc sản xuất của họ mỗi năm? Tại sao Chúa yêu cầu họ làm điều này?

Đức Chúa Trời giải thích qua Môi-se rằng một trong những lý do Ngài thiết lập hệ thống phần mười là “hầu cho ngươi tập hằng kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi” (Phục truyền 14:23). Trong bài thơ đối chiếu của Thi thiên 31:19, chúng ta thấy rằng kính sợ đồng nghĩa với tin cậy.

“Sự nhân từ Chúa, mà Chúa đã dành cho người kính sợ Chúa, và thi hành trước mặt con cái loài người cho những kẻ nương náu mình nơi Chúa, thật lớn lao thay!”

Các lời thi ca này cho chúng ta thấy rằng kính sợ Chúa là tin cậy Ngài. Do đó, chúng ta hiểu rằng Đức Chúa Trời đã thiết lập hệ thống phần mười để bảo vệ chúng ta khỏi sự ích kỷ và khuyến khích chúng ta tin cậy Ngài sẽ chu cấp cho chúng ta. Tuy trung tín trong việc hoàn trả phần mười, chắc chắn không phải là bảo đảm rằng người ta sẽ còn trung tín cho đến cuối cùng, nhưng những người không trung tín trong phần mười chắc chắn đang tự đưa mình vào việc không hay.

Mặc dù Kinh Thánh không có những lời cảnh cáo chống lại sự giàu có, nhưng Kinh Thánh cũng không nói về sự giàu có làm tăng tiến đời sống thiêng liêng của một người. Trong thực tế, điều nguy hiểm ngược lại là đúng. “Sự ham tiền, khao khát phú quí chẳng khác nào chiếc xích vàng trói buộc họ với Sa-tan.”—Ellen G. White, Con Đường Giải Thoát, trang 38, Nhà In Tiếng Nói Hy Vọng.

Trên thực tế, kể từ khi Cơ Đốc giáo được thành lập, chưa có tín ngưỡng đạo giáo nào được hưởng của cải và tiện nghi tạo vật như ngày nay mà các nhà thờ ở nhiều quốc gia trên thế giới được hưởng. Câu hỏi đặt ra là: Bằng giá nào? Sự sung túc như vậy chắc chắn ảnh hưởng đến tâm linh của chúng ta—và cũng không phải là điều tốt. Làm sao nó có thể mang ảnh hưởng tốt được? Từ bao giờ sự sung túc dồi dào của tiền bạc và vật chất có thể đã nuôi dưỡng được các đức tính quên mình và hy sinh của người tín hữu Cơ Đốc giáo? Có thể nào bước về nhà với tủ lạnh chứa nhiều thực phẩm hơn chúng ta có thể ăn, sở hữu một hoặc hai chiếc xe hơi, đi nghỉ mát hàng năm và mua sắm trực tuyến, đồng thời có máy vi tính và điện thoại thông minh mới nhất giúp bạn dễ dàng không yêu mến thế gian cũng như mọi thứ trên thế gian? Tuy có thể nhiều thuộc viên của hội thánh chúng ta không có những thứ xa xỉ này, nhưng cũng có nhiều người có—và họ làm như vậy sẽ gây nguy hiểm cho chính linh hồn của họ. Đây không phải là nói về “người giàu” bây giờ, như ở các triệu phú hay tỉ phú. Ít nhất mấy người đó biết rằng họ giàu có và họ có thể chọn để nghe những lời cảnh báo trong Kinh Thánh dành cho họ. Ở đây, chúng ta đang nói về nhiều người thuộc tầng lớp trung lưu, những người—giữa các iphone, iMac, máy lạnh và xe SUV—đủ bị lừa để nghĩ rằng vì họ chỉ là “tầng lớp trung lưu”, họ không thuộc nguy cơ bị chính sự thịnh vượng của họ ngấm dần đời sống thuộc linh của họ. Đó là lý do tại sao một phần mười có thể, nếu không nói gì khác, là liều thuốc tinh thần mạnh mẽ đối với sự nguy hiểm của sự giàu có, ngay cả đối với những người không nhất thiết “giàu có”.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN:

  1. Ngay cả khi chúng ta không giàu theo tiêu chuẩn của thế gian, tại sao tất cả chúng ta phải cẩn thận về thái độ của mình đối với tiền bạc và của cải?
  2. Một số việc thiết thực mà chúng ta có thể làm, ngoài tiền phần mười, có thể giúp chúng ta đảm bảo rằng mình không quá vướng bận vào những thứ của thế gian này?
  3. Điều gì sẽ xảy ra với bạn vào ngày mai nếu đột nhiên, bạn không thể mua hoặc bán vì bạn được xếp vào số những người “giữ điều răn của Đức Chúa Trời và giữ lòng tin Đức Chúa Jêsus.” (Khải huyền 14:12)? Đức tin của bạn sẽ vững vàng đến đâu?
Bài Học 10, 4 — 10 Tháng 3, 2023

Hoàn Trả / Cho Lại

CÂU GỐC: “Tôi nghe có tiếng đến từ trên trời rằng: Hãy viết lấy: Từ rày phước thay cho những người chết là người chết trong Chúa! Đức Thánh Linh phán: Phải, vì những người ấy nghỉ ngơi khỏi sự khó nhọc, và việc làm mình theo sau” (Khải huyền 14:13).

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Lu-ca 12:16–21, Truyền đạo 2:18–22, Châm ngôn 27:23–27, 2 Cô-rinh-tô 4:18, Truyền đạo 5:10, Cô-lô-se 1:15–17.

Khi chúng ta đến gần cuối những năm mình còn có thể làm việc và thu nhập, tài chính của chúng ta nay tập trung vào việc tiết kiệm tài sản của mình cho những năm cuối đời. Quá trình chuyển đổi từ làm việc sang nghỉ hưu có thể là một thay đổi rất lớn và khó khăn cho nhiều người. Trên phương diện tài chính, cách nào là tốt nhất cho mỗi người để tiến hành sự hoán chuyển này?

Khi người ta già đi, họ gần như tự nhiên bắt đầu lo lắng về tương lai. Những nỗi sợ hãi nhiều người thường có nhất là: chết quá sớm (trước khi lo được cho gia đình mình); sống quá lâu (xài hết tài sản hoặc tiền tiết kiệm của họ); bệnh tật thảm khốc (tất cả mọi nguồn lực tài sản của mình có thể tiêu tan trong chốc lát); và khuyết tật về tinh thần và / hoặc thể chất (ai sẽ chăm sóc mình?).

Khi bình luận về những nỗi sợ hãi này, Ellen G. White viết: “Tất cả những nỗi sợ hãi này đều bắt nguồn từ Sa-tan . . . Nếu người ta có được vị trí mà Đức Chúa Trời muốn dành cho họ, thì những ngày cuối đời của họ có thể là những ngày hạnh phúc và tuyệt vời nhất . . . Họ nên gạt lo âu và gánh nặng sang một bên, để thời gian mình có bận rộn bằng sự vui mừng hết mức, và để mình sẵn sàng cho thiên đàng.”—Testimonies for the Church, quyển 1, trang 424.

Tuần này, chúng ta sẽ xem lại lời khuyên của Đức Chúa Trời về những năm cuối cùng của đời mình. Đâu là những việc nên làm, những việc nên tránh và những nguyên tắc nào cần tuân thủ?

Đọc Lu-ca 12:16–21. Lời khuyên có liên quan đến chúng ta ở đây là gì? Chúa đã có lời quở trách mạnh mẽ nào đối với kẻ ngu dại kia, và điều đó cho chúng ta biết gì về thái độ của mình đối với những gì mình sở hữu?

Tuy sự dạy dỗ ở đây bao quát hơn cả câu chuyện này, nhưng người ta có thể cho rằng đây là một câu chuyện Đức Chúa Giê-su kể để nói về những điều mà người ta không nên làm khi đã đi vào tuổi hưu trí. Theo đó, nếu một người đang bước vào tuổi về hưu để bắt đầu vui hưởng và tiêu xài tài sản mình đã dành dụm cho chính mình thì nên lưu ý và ghi nhớ câu chuyện này. Vấn đề không phải là về sự làm việc chăm chỉ hay trở nên giàu có, nhất là khi một người già đi và thậm chí lại có thể giàu hơn nữa. Vấn đề là thái độ đối với việc ấy. Lời của người ấy rằng, “Linh hồn ơi, mầy đã được nhiều của để dành dùng lâu năm; thôi, hãy nghỉ, ăn uống, và vui vẻ” (Lu-ca 12:19)—cho thấy vấn đề thực sự là đây.

“Nhân vật này có một mục tiêu chẳng cao quí gì hơn mục tiêu của những con thú ngoài đồng rồi sẽ bị diệt vong. Anh ta sống như thể Chúa không hiện hữu, không có thiên đàng, không có một sự sống tương lai; như thể mọi thứ anh ta sở hữu là của riêng anh ta, và anh ta chẳng nợ Chúa hay con người gì cả.”—Ellen G. White, Christ’s Object Lessons, trang 257, 258.

Nếu, trong giai đoạn này của cuộc đời, chúng ta chỉ nghĩ đến bản thân mà chẳng cần biết nhu cầu của người khác và duyên cớ của Đức Chúa Trời, thì chúng ta đang noi gương kẻ giàu mà dại dột kia. Không có dấu hiệu nào trong dụ ngôn của Đức Chúa Giê-su cho thấy người giàu ấy lười biếng hoặc không trung thực. Vấn đề là ở trong cách anh ta đã sử dụng những gì Đức Chúa Trời đã giao phó cho mình. Bởi vì chúng ta không ai biết ngày mình sẽ lìa trần, chúng ta nên luôn sẵn sàng cho nó bằng cách sống để thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời thay vì theo đuổi một cuộc sống ích kỷ.

Hình ảnh chung mà chúng ta thường thấy trong Kinh Thánh là một người làm việc và vẫn còn đắc lực khi người ấy còn có thể làm được. Và thật vậy, điểm thích thú trong Kinh Thánh là tác giả của các sách tiên tri vĩ đại như sách Đa-ni-ên và Khải Huyền, nhiều học giả tin rằng cả hai đều đã ở độ tuổi 80 khi họ viết những tác phẩm này. Họ sống trong thời điểm mà con người sống trong độ tuổi thọ trung bình là khoảng 50. Bà Ellen G. White đã xuất bản một số tác phẩm nổi tiếng và được yêu thích nhất của bà, chẳng hạn như The Desire of Ages, sau khoảng 70 tuổi. Bởi thế, tuổi cao, miễn là chúng ta còn khỏe mạnh, không có nghĩa là chúng ta ngừng làm việc có hiệu quả và, ở bất kỳ mức độ nào mình có thể, làm được việc hữu ích.

Đức Chúa Giê-su đã khuyên những người đang chờ đợi sự tái lâm của Ngài không chỉ trông chờ mà còn tiếp tục làm việc (Ma-thi-ơ 24:44–46).

Dầu ở bất kỳ lứa tuổi nào và với bất kỳ số tiền nào, làm thế nào chúng ta có thể tránh rơi vào cái bẫy mà nhân vật trong chuyện Kinh Thánh này đã làm ở đây? Hãy tự hỏi chính mình, “Tôi đang sống để làm gì?”

Có người đã hỏi giảng sư nổi tiếng Billy Graham điều gì khiến ông ngạc nhiên nhất về cuộc đời, lúc này khi ông đã già (lúc đó Graham đã ngoài 60 tuổi). Câu trả lời của Graham? “Sự ngắn ngủi của nó.”
Không nghi ngờ, cuộc đời trôi qua quá nhanh.

Các văn bản dưới đây dạy gì về đời người? Thi thiên 49:17; 1 Ti-mô-thê 6:6, 7; Thi thiên 39:11; Gia-cơ 4:14; Truyền đạo 2:18–22.

Cuộc đời không những trôi qua rất nhanh mà khi chết đi, bạn cũng chẳng mang theo được gì, ít nhất là những của cải vật chất mà bạn đã tích lũy được. (Danh phẩm mình? Đó là chuyện khác.) “Vì khi người chết chẳng đem đi gì được” (Thi thiên 49:17), có nghĩa là người ta để lại nó cho người khác lấy. Dĩ nhiên, ai sẽ nhận được nó, tùy vào những kế hoạch đã được xếp đặt trước.

Tuy vậy, dĩ nhiên là không phải ai cũng có tài sản riêng, hầu hết mọi người, nhất là khi họ đã làm việc trong nhiều năm, đều tích lũy được một số của cải. Cuối cùng, điều gì sẽ xảy ra với những tài sản hay sự giàu có đó sau khi bạn qua đời, thực sự là một câu hỏi quan trọng mà mọi người nên cân nhắc.

Đối với những người có tài sản vào cuối đời, bất kể những gì chúng ta có, nhiều hay ít, việc lập kế hoạch di sản có thể là hành động quản lý cuối cùng của chúng ta, quản lý cẩn thận những gì Chúa đã ban phước cho chúng ta. Nếu bạn không có kế hoạch di sản mà bạn đã lập bằng di chúc hoặc ủy thác, thì luật của chính phủ dân sự hoặc tiểu bang có thể có hiệu lực (dĩ nhiên, tất cả điều này tùy vào nơi bạn sống). Nếu bạn chết mà không để lại di chúc, hầu hết các cơ quan tài phán dân sự chỉ đơn giản là chuyển tài sản của bạn cho người thân của bạn, cho dù họ có cần hay không, hay họ có sử dụng số tiền ấy hợp lẽ hay không và bạn có chọn chia một phần cho người ấy hay không. Hội thánh hay nhà thờ của bạn sẽ không nhận được gì. Nếu đó là cách bạn muốn, tốt; nếu không, bạn cần phải vạch ra kế hoạch từ trước.

Bằng những lời đơn giản nhất, chúng ta có thể nói rằng vì Đức Chúa Trời là Đấng Sở Hữu của mọi sự (xem Thi thiên 24:1), nên sẽ hợp lý khi kết luận theo quan điểm Kinh Thánh rằng khi chúng ta đã hoàn tất những gì Đức Chúa Trời đã giao phó, chúng ta nên trao trả lại cho Ngài, là Đấng Sở Hữu hợp pháp, những gì còn lại, một khi nhu cầu của những người thân yêu được đáp ứng.

Cái chết, như chúng ta biết, có thể đến bất cứ lúc nào, và bất ngờ, ngay cả ngày hôm nay. Điều gì sẽ xảy ra với những người thân yêu của bạn nếu bạn chết ngày hôm nay? Điều gì cũng sẽ xảy ra với tài sản của bạn? Nó có được dùng như ý bạn muốn?

Vào thời Cựu Ước, nhiều con cái Y-sơ-ra-ên làm nghề nông và là người chăn chiên. Do đó, một số phước lành đã hứa của Đức Chúa Trời được diễn đạt bằng ngôn ngữ nghề nông. Chẳng hạn, trong Châm ngôn 3:9, 10, Đức Chúa Trời nói rằng nếu chúng ta trung tín về tài chính với Ngài, thì “các vựa lẫm con sẽ đầy dư dật”. Ngày nay nhiều Cơ Đốc nhân không có nhà kho. Vì vậy, chúng ta hiểu rằng Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho việc làm hoặc công việc kinh doanh của chúng ta nếu chúng ta sẵn lòng làm theo và vâng lời Ngài.

Đọc Châm ngôn 27:23–27. Bạn sẽ giải thích thế nào về “Hãy ráng biết cảnh trạng bầy chiên con, và lo săn sóc các đàn bò của con” cho các Cơ Đốc nhân sống ngày nay?

Dầu Kinh Thánh khuyến cáo nhiều về việc người giàu chà đạp người nghèo hoặc có lòng tham lam với của cải, Kinh Thánh không bao giờ lên án sự giàu có hoặc nỗ lực của con người để có được tài sản, dĩ nhiên là khi họ không làm điều ấy một cách thiếu trung thực hoặc bằng cách áp bức người khác. Trên thực tế, các câu Châm ngôn chúng ta vừa đọc trên, chỉ ra rằng chúng ta nên siêng năng trong công việc tài chính của mình để có thể có đủ cho bản thân và gia đình. “Sữa dê có đủ làm đồ ăn cho con, Cho người nhà con, và đặng nuôi lấy các con đòi của con” (Châm ngôn 27:27).

Theo lối sống ngày nay thì chúng ta sẽ diễn đạt lại câu đó như thế nào? Có thể chúng ta sẽ nói, “Xem xét hồ sơ tài chánh của bạn và xác định tình trạng tài chánh của mình.” Hoặc “Lập bảng kế toán để so sánh và hiểu tỷ lệ nợ và vốn chủ sở hữu của mình.” Không chỉ một lần, nhưng phải vài lần trong những năm còn đi làm, bạn cũng cần phải xem xét di chúc hoặc các hồ sơ về tài sản hiện tại của bạn và cập nhật chúng khi cần thiết. Các tài liệu như di chúc và ủy thác cần nên có trước tiên trong quá trình lập kế hoạch di sản để bảo vệ trường hợp bị chết bất ngờ, hoặc vì lý do sức khỏe không thể quyết định tài sản của mình đi đâu. Chủ ý là chúng ta cần có một kế hoạch thảo trước để dự phòng những gì sẽ xảy ra với tài sản của mình khi chúng không còn trong tay bạn nữa.

Tóm lại, việc quản lý tốt những gì Chúa đã ban phước cho chúng ta không phải chỉ là với những gì mình có khi còn sống mà còn với những gì xảy ra sau khi chúng ta ra đi—bởi vì, trừ khi Chúa trở lại trong cuộc đời chúng ta, một ngày nào đó chúng ta sẽ qua dời, của cải vật chất của chúng ta, dù ít hay nhiều, sẽ vẫn ở lại, Do đó, bây giờ chúng ta phải dự phòng sao cho những gì mình được ban phước có thể trở thành phước lành cho người khác và để tiếp tục công việc của Đức Chúa Trời.

“Vì sự giàu có không lưu tồn mãi mãi” (Châm ngôn 27:24). Tại sao giữ ý tưởng này trong mọi dự định của chúng ta là quan trọng?

Chúng ta có thể rút ra những nguyên tắc nào từ các câu Kinh Thánh dưới đây về cách chúng ta nên đối phó với tiền bạc?

1 Ti-mô-thê 6:17 
2 Cô-rinh-tô 4:18 
Châm ngôn 30: 8 
Truyền đạo 5:10 

Tiền có thể có sức mạnh nắm giữ con người, một sự kìm giữ đã dẫn đến sự hủy hoại của nhiều người. Ai đã chẳng từng nghe về những người đã làm những điều khủng khiếp chỉ vì tiền—dầu cả khi họ đã có rất nhiều tiền rồi?

Nhưng không nhất thiết cuộc đời phải như vậy. Nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời, chúng ta có thể chiến thắng nỗ lực của một kẻ thù nhằm dùng những gì đáng lẽ là một phước lành (của cải vật chất) và biến chúng thành một sự rủa sả.

Trong bối cảnh trở thành người quản lý tốt trong việc lập kế hoạch cho sự chết, một nguy cơ mà ai cũng phải đối diện là sự cám dỗ của việc tích trữ tài sản lúc này đây. Và người ta biện minh cho việc tích trữ với ý nghĩ rằng “Khi tôi chết, tôi có thể cho đi tất cả”. Tuy ý tưởng ấy tốt hơn là tiêu xài hết mọi thứ mình có (như một tỷ phú đã nói rằng ông ta biết rằng ông ta sẽ sống đúng khi chi phiếu trang trải phí tổn của đám tang của ông ta bị không tiền bảo chứng!), chúng ta có thể và nên làm tốt hơn thế.

“Tôi đã thấy rằng nhiều người từ chối không giúp đỡ cho những nhu cầu chính đáng khi họ còn sống, họ tự an ủi lương tâm mình rằng họ sẽ giúp từ thiện khi chết; họ hầu như không dám thực hiện đức tin và sự tin cậy nơi Chúa để ban cho công việc của Ngài chút gì khi còn sống. Nhưng lòng bác ái trong giờ phút lâm chung này không phải là điều mà Đấng Christ đòi hỏi ở những kẻ theo Ngài; nó không thể bào chữa cho sự ích kỷ của người khi còn sống. Những người ghìm chặt tài sản của họ cho đến giây phút cuối cùng, và chỉ buông tay vì cái chết hơn là vì công việc Chúa. Mất mát luôn xảy ra. Các ngân hàng thất bại, và tài sản sẽ bị tiêu hao theo nhiều cách. Có nhiều mục đích để làm điều gì đó, nhưng họ luôn trì hoãn việc ban cho, và Sa-tan làm việc để ngăn chặn các sự trợ giúp vào ngân quỹ. Ngân quỹ dành để dâng đã bị tiêu hao trước khi nó được hoàn trả lại cho Đức Chúa Trời, và Sa-tan thật sự chiến thắng trong những trường hợp ấy.”— Ellen G. White, Testimonies for the Church, quyển 5, trang 154.

Tại sao chúng ta phải hết sức thận trọng trong sự biện minh cho việc tiêu dùng bất cứ phước lành vật chất nào mà chúng ta có?

Thật khó để biết cuộc sống trên trái đất sẽ như thế nào nếu loài người không phạm tội. Nhưng chúng ta có thể biết chắc một điều: sẽ không có tích trữ, không tham lam, không nghèo đói – những điều đã dẫy đầy trong thế giới của chúng ta kể từ khi có lịch sử. Tuy nhiên, ý thức về quyền sở hữu của chúng ta đối với những gì mình đã lao động và nếu chúng ta làm việc cách trung thực, đúng đắn là của chúng ta, vẫn là một biểu hiện của cuộc đời trong một thế giới sa đọa. Rồi, cuối cùng, bất kể chúng ta sở hữu nhiều bao nhiêu hay không có gì cả, có một điểm quan trọng mà chúng ta phải luôn ghi nhớ.

Đọc các câu dưới đây. Trọng điểm của tất cả các câu này là gì, và điểm ấy sẽ tác động thế nào đến những gì chúng ta làm với bất kỳ phương tiện vật chất nào mà Đức Chúa Trời đã ban phước cho chúng ta? (Thi thiên 24:1, Hê-bơ-rơ 3:4, Thi thiên 50:10, Sáng thế Ký 14:19, Cô-lô-se 1:15–17).

Chúng ta là những người quản lý và điều hành những gì Ngài đã giao phó cho chúng ta; nghĩa là, chung cuộc, Đức Chúa Trời làm chủ tất cả, và Ngài là Đấng ban cho chúng ta sự sống, sự hiện hữu và sức mạnh để có được bất cứ thứ gì. Vì vậy, điều hợp lý là khi chúng ta đã hoàn tất những gì Chúa đã ban cho mình và đã có phần để chăm sóc gia đình của mình, chúng ta nên hoàn trả lại những gì còn lại cho Ngài.

“Dâng hiến cho công việc của Chúa, có nghĩa là bạn đang tích trữ cho mình kho tàng ở trên trời. Tất cả những gì bạn tích trữ trên thiên đàng đều được bảo đảm an toàn khỏi tai họa và mất mát, được tăng lên bội phần cho đến đời đời, là của cải đời đời [và] sẽ được ghi vào sổ hồ sơ của bạn trên thiên đàng.”—Ellen G. White, Counsels on Stewardship, trang 342.

Có rất nhiều lợi điểm để chúng ta nên ban cho lúc này, khi chúng ta còn sống. Một vài điểm như sau:

1. Người dâng hiến có thể thấy kết quả hiện thực của món quà mình cho—một ngôi nhà thờ mới, một người trẻ đang học đại học, một chiến dịch truyền giảng được tài trợ, v.v.
2. Mục vụ hoặc cá nhân có thể được hưởng lợi ích ngay bây giờ khi nhu cầu đang cần nhất.
3. Tránh không có sự giành giật giữa gia đình hoặc bạn bè sau cái chết của bạn.
4. Nó là thí dụ thực tiễn của các giá trị gia đình về lòng rộng lượng và tình yêu thương đối với người khác.
5. Nó giúp giảm bớt thuế trên gia tài hay di sản.
6. Nó bảo đảm rằng món quà bạn cho sẽ được thực hiện theo lòng mong muốn của bạn (không có sự can thiệp của tòa án hoặc những người thân bất mãn).
7. Nó chứng tỏ rằng trái tim của người tặng đã được thay đổi từ ích kỷ thành không ích kỷ.
8. Nó tích trữ kho báu trên trời.

Ngoài ra còn có một phần thảo luận về việc lập kế hoạch di sản trong Counsels on Stewardship, trang 323–335. Ellen G. White cũng viết: “Có nhiều người cố hoãn lại cho đến khi họ sắp chết; nếu họ thực sự là Cơ Đốc nhân thì họ sẽ dâng hiến trong khi còn khỏe mạnh. Họ sẽ dâng hiến bản thân và tài sản của họ cho Đức Chúa Trời, và trong khi đóng vai trò là người quản gia của Ngài, họ sẽ hài lòng khi làm nhiệm vụ của mình. Bằng cách trở thành người điều hành thực thi di chúc của chính mình, họ có thể đáp ứng những yêu cầu của chính Đức Chúa Trời, thay vì chuyển giao trách nhiệm cho người khác.”—Testimonies for the Church, quyển 4, trang 480.

Ý bà White nói gì khi chúng ta là “người điều hành thực thi di chúc của chính mình”? Trong di chúc thông thường, người lập di chúc chỉ định người thi hành việc phân phối tài sản sau khi người đó chết phù hợp với mong muốn của anh ta như được thể hiện trong di chúc. Bằng cách trở thành người điều hành của chính bạn, bạn chỉ cần tự phân phối tài sản của mình trong khi bạn đang sống. Làm như vậy, bạn sẽ hài lòng khi nhìn thấy kết quả và biết rằng bạn đang sử dụng các tài năng (ta-lâng) được Đức Chúa Trời giao phó một cách đúng đắn.

Đối với Cơ Đốc nhân, sự tái lâm của Đấng Christ là “Niềm hy vọng phước hạnh”. Tất cả chúng ta đều đã tưởng tượng giây phút mình nhìn thấy Đức Chúa Giê-su trở lại trên những đám mây trên trời, mới tuyệt vời làm sao. Chúng ta rất háo hức được nghe những lời Chúa phán, “Con đã làm mọi việc tốt lành.” Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta yên nghỉ trước khi Chúa Giê-su trở lại? Nếu chúng ta đã làm theo ý muốn được bày tỏ của Ngài, chúng ta có thể có được sự hài lòng ngay bây giờ khi thấy công việc Chúa được tiến triển vì những nỗ lực của mình, biết rằng vì kế hoạch di sản của chúng ta, công việc Chúa sẽ tiếp tục sau khi chúng ta ra đi.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN:

  1. Mặc dù lúc này chúng ta có thể cất giữ kho báu trên thiên đàng, nhưng tại sao đó không phải giống như bạn đang cố gắng “làm công quả” hay “mua vé” để được cứu?
  2. Trong khi chúng ta nên hào phóng cho đi với những gì chúng ta có bây giờ, chúng ta cũng nên khôn ngoan. Chúng ta thường nghe có những người, đặc biệt là những người đặt ra một thời hạn chót, kêu gọi quyên góp vì sẽ có một sự kiện nào đó sẽ xảy ra vào một ngày tháng nhất định, bằng không, khi đó tiền của chúng ta sẽ trở nên vô dụng, rồi họ kêu gọi chúng ta nên gửi nó vào mục vụ của họ ngay bây giờ. Làm thế nào chúng ta có thể học cách phân biệt giữa thủ đoạn gian dối này và những cách hợp pháp mà chúng ta có thể sử dụng tiền bạc của mình ngay cả bây giờ cho công việc thật của Đức Chúa Trời?
Bài Học 9, 25 Tháng 2 — 3 Tháng 3, 2023

Cẩn Thận Với Lòng Tham Muốn

CÂU GỐC: “Đoạn, Ngài phán cùng chúng rằng: Hãy giữ cẩn thận chớ hà tiện gì hết; vì sự sống của người ta không phải cốt tại của cải mình dư dật đâu” (Lu-ca 12:15).

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Ê-sai 14:12–14, Ê-phê-sô 5:5, Giô-suê 7, Giăng 12:1–8, Công vụ 5:1–11, 1 Cô-rinh-tô 10:13.

Tham lam có nghĩa là ham muốn quá mức về của cải hoặc tài sản vốn không thuộc về mình. Tham lam thật sự rất nguy hại, thực tế nó đủ nguy hiểm ngay cả khi chưa thể hiện bằng hành động như là nói dối, trộm cắp hoặc là giết người. Nó tai hại đến nỗi Đức Chúa Trời đã cảnh báo về sự tham lam trong luật luân lý vĩ đại của Ngài. “Ngươi chớ tham nhà kẻ lân cận ngươi, cũng đừng tham vợ người, hoặc tôi trai tớ gái, bò, lừa, hay là vật chi thuộc về kẻ lân cận ngươi” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:17).

Lòng tham thường được liệt kê cùng những tội ghê tởm khiến một người không thể được dự phần vào nước của Đức Chúa Trời. “Anh em há chẳng biết những kẻ không công bình chẳng bao giờ hưởng được nước Đức Chúa Trời sao? Chớ tự dối mình: Phàm những kẻ tà dâm, kẻ thờ hình tượng, kẻ ngoại tình, kẻ làm giáng yểu điệu, kẻ đắm nam sắc, kẻ trộm cướp, kẻ hà tiện, kẻ say sưa, kẻ chưởi rủa, kẻ chắt bóp, đều chẳng hưởng được nước Đức Chúa Trời đâu” (1 Cô-rinh-tô 6:9, 10).

Kẻ tham lam mà Kinh Thánh dịch là “kẻ hà tiện” được liệt kê cùng với kẻ chắt bóp, kẻ tà dâm, kẻ thờ hình tượng hay sao? Vâng, đó là những gì mà câu Kinh Thánh trên đã bày tỏ, tuần này chúng ta sẽ xem qua những trường hợp tồi tệ do sự tham lam gây ra và cách để chiến thắng nó.

Câu hỏi thường được nêu lên, và rất dễ hiểu là vì sao, về cách tội lỗi phát sinh trong vũ trụ của Đức Chúa Trời. Chúng ta cũng đã hiểu một phần nào đó. Nhưng căn nguyên của tội lỗi, chính là do lòng tham. Nên có lẽ lòng tham chính là nguồn gốc cốt lõi của tội lỗi.

Đọc Ê-sai 14:12–14. Những dấu hiệu nào cho thấy sự sa ngã của Lu-ci-phe? Lòng tham là nguyên nhân chính dẫn đến sự sa ngã như thế nào?

“Mặc dù được tôn vinh trên mọi thiên sứ, nhưng Sa-tan vẫn không thỏa lòng với vị trí của mình, muốn nhận được sự tôn vinh chỉ dành cho Đấng Tạo Hóa. Thay vì kêu gọi mọi loài thọ tạo phải yêu mến và vâng theo uy quyền tối cao của Đức Chúa Trời, thì Sa-tan lại cố gắng để giành lấy những điều đó cho chính mình. Và thèm muốn sự vinh hiển mà Chúa Cha đã ban cho Chúa Giê-su, Sa-tan muốn có uy quyền mà chỉ Đấng Christ mới có.”—Ellen G. White, Patriarchs and Prophets, trang 35.

Đọc Ê-phê-sô 5:5 và Cô-lô-se 3:5. Phao-lô xem sự thèm muốn như là điều gì, và tại sao?

Thật kỳ thú khi Phao-lô đồng nghĩa sự thèm muốn với việc thờ hình tượng. Người ta thờ thần tượng khi họ tôn sùng—nghĩa là họ dâng hiến đời sống mình—cho một điều gì hay ai đó không phải là Đức Chúa Trời, là một điều hay một kẻ chỉ là vật thọ tạo; và người ta tôn sùng điều ấy hay kẻ ấy hơn là Đấng Tạo Hóa (Rô-ma 1:25). Vậy, có thể nào lòng mong muốn hay thèm khát điều gì đó mà chúng ta không nên tham muốn, và lòng khao khát của chúng ta đối với nó, chứ không phải là với Chúa, trở thành tâm điểm của trái tim chúng ta?

Chắn chắn, Lu-xi-phe ban đầu không biết những tham muốn sai lầm của mình sẽ dẫn mình đến đâu. Việc ấy cũng có thể giống như vậy với chúng ta. Điều răn chống lại sự tham muốn, một điều răn chỉ đề cập đến ý tưởng (chứ không hành động), có thể ngăn ngừa chúng ta khỏi những hành vi dẫn đến việc vi phạm các điều răn khác (chẳng hạn, xin xem 2 Sa-mu-ên 11).

Đọc 1 Ti-mô-thê 6:6, 7. Làm thế nào để chú ý vào những gì Phao-lô viết ở đây có thể giúp bảo vệ chúng ta khỏi sự tham muốn?

Đây là trong khoảng thời gian được cho là một trong những thời kỳ vĩ đại nhất trong lịch sử của Y-sơ-ra-ên. Sau 40 năm lang thang trong đồng vắng, cuối cùng họ cũng được vào Đất Hứa. Qua một phép lạ vĩ đại và kinh ngạc, con cái Y-sơ-ra-ên đã vượt qua Sông Giô-đanh giữa mùa nước lũ như đi trên đất khô. Cuộc đi qua sông như trên mặt đất khô này thật quá sức tưởng tượng của con người nên đã để lại một ấn tượng kinh khủng trong lòng các vua ngoại đạo của xứ Ca-na-an, đến nỗi lòng họ tan chảy, và họ không còn tinh thần để chiến đấu (Giô-suê 5:1).

Thử thách thực sự đầu tiên trong cuộc chinh phục Ca-na-an là thành Giê-ri-cô có tường lũy kiên cố bao quanh. Không ai biết phải làm gì để có thể đánh bại cư dân của Giê-ri-cô—ngay cả Giô-suê. Nhưng Đức Chúa Trời đã đáp lại lời cầu nguyện của Giô-suê, và Ngài đã tiết lộ kế hoạch phá hủy thành này, và họ đã tuân theo Ngài. Nhưng sau đó, mọi việc chuyển sang một hướng hoàn toàn tồi tệ.

Đọc Giô-suê 7. Điều gì đã xảy ra sau chiến thắng vĩ đại tại Giê-ri-cô, và chúng ta nên rút ra sự dạy dỗ nào từ câu chuyện này cho bản thân mình?

Sau khi bị đối chất, A-can thừa nhận những gì mình đã làm, nói rằng mình đã “thèm muốn” những của cải đó. Động từ tiếng Do Thái trong câu chuyện này thường được dịch là “thèm muốn”, chmd, là một chữ đã được dùng ở một số nơi trong Kinh Thánh theo nghĩa rất tích cực. Chẳng hạn, cùng một chữ gốc xuất hiện trong Đa-ni-ên 9:23, khi thiên sứ Gáp-ri-ên nói với Đa-ni-ên rằng ông là một người “được yêu quí lắm.”

Tuy nhiên, trong trường hợp này động từ chmd dùng ở đây là một tin xấu. Mặc dù có mệnh lệnh rõ ràng là không được cướp của các thành phố bị chiếm đóng (Giô-suê 6:18, 19), A-can đã làm điều đó, và mang những điều chẳng lành đến cho cả dân tộc. Thật vậy, sau khi thất trận A-hi, Giô-suê sợ rằng, “Dân Ca-na-an và cả dân ở xứ nầy sẽ hay điều đó, sẽ vây chúng tôi, và diệt danh chúng tôi khỏi đất; rồi Chúa sẽ làm sao cho danh lớn Chúa?” (Giô-suê 7:9). Nói cách khác, Chúa muốn dùng những chiến thắng vĩ đại này như một phần để cho các nước xung quanh biết về quyền năng của Ngài và công việc của Ngài trong dân sự của Ngài. Các cuộc chinh phạt của họ là để (theo một cách khác) làm chứng cho mọi dân tộc về quyền năng của Giê-hô-va. Tất nhiên, sau sự thảm bại tại A-hi, ngoài thiệt hại về nhân mạng, lời chứng ấy đã bị tổn hại.

Hãy nghĩ xem A-can đã biện minh cho hành động của mình khi thực hiện nó dễ dàng như thế nào: Thiệt tình, đây chỉ là chút đỉnh có là bao so với toàn bộ chiến lợi phẩm mang về. Có ai biết được. Có ai mà để ý chút ít này và có chết chóc gì ai? Trong khi đó, gia đình mình đang cần tiền. Làm thế nào chúng ta có thể tự bảo vệ mình khỏi kiểu hợp lý hóa nguy hiểm này?

Một trong những câu chuyện bi thảm nhất trong Kinh Thánh chính là câu chuyện về Giu-đa Ích-ca-ri-ốt. Ông cùng với 11 người môn đồ khác đã nhận được một đặc ân mà không ai khác trên thế gian có thể nhận được, đó là được sống với Chúa Giê-su và học biết lẽ thật một cách trực tiếp từ Ngài. Thật đáng tiếc khi mà rất nhiều người không có những cơ hội như Giu-đa lại được cứu, trong khi Giu-đa thì lại đối diện với sự hư mất đời đời.

Điều gì đã đưa đến nông nỗi này? Câu trả lời có thể được tìm thấy trong một danh từ: sự tham muốn, sự thèm khát ở trong lòng Giu-đa.

Đọc Giăng 12:1–8. Người phụ nữ tên Ma-ri đã làm gì mà gây được nhiều sự chú ý trong buổi tiệc? Giu-đa phản ứng thế nào? Tại sao? Đức Chúa Giê-su trả lời thế nào?

Lời quở trách nhẹ nhàng của Đấng Cứu Rỗi đối với nhận xét đầy thèm muốn của Giu-đa đã khiến ông rời bữa tiệc và đi thẳng đến dinh của thầy tế lễ thượng phẩm, nơi tập trung những kẻ thù của Đức Chúa Giê-su. Giu-đa đề nghị mình sẽ phản Chúa và bán Ngài vào tay họ với số tiền nhỏ hơn nhiều so với món quà của Ma-ri (xin xem Ma-thi-ơ 26:14–16).

Điều gì đã xảy đến với Giu-đa? Là người đã có biết bao cơ hội tuyệt vời, bao nhiêu là đặc ân hiếm có, tại sao Giu-đa lại làm điều xấu xa như vậy? Theo Ellen G. White, “Giu-đa yêu Người Thầy Cao cả và mong muốn được ở bên Ngài. Ông cảm thấy khao khát được thay đổi cá tính và cuộc đời, và ông đã hy vọng sẽ trải nghiệm điều này qua việc kết nối mình với Đức Chúa Giê-su. Đấng Cứu Rỗi đã không khước từ Giu-đa. Ngài đã cho ông một chỗ đứng trong số mười hai môn đồ mình. Ngài tin cậy giao cho ông làm công việc của một nhà truyền giáo. Ngài đã ban cho ông quyền năng để chữa lành bệnh tật và đuổi quỷ. Nhưng Giu-đa đã không phó thác trọn đời sống mình cho Đấng Christ.”—Desire of Ages, trang 716.

Cuối cùng, tất cả chúng ta đều có những khiếm khuyết về cá tính mà nếu chịu phó thác hoàn toàn cho Chúa, chúng ta có thể khắc phục được các khiếm khuyết ấy nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời làm việc trong lòng chúng ta. Nhưng Giu-đa đã không hoàn toàn đầu phục Đức Chúa Giê-su Christ, và tội tham lam, mà lẽ ra ông có thể vượt qua được bởi trong quyền năng của Đấng Christ. Tội lỗi ấy đã chiến thắng Giu-đa, và đưa đến một kết cuộc bi thảm.

Ai trong chúng ta mà đã chẳng từng đấu tranh với sự thèm muốn thứ này hay thứ khác? Trong trường hợp của Giu-đa, điều ông thèm muốn là tiền bạc, và lòng tham đó, một vấn đề của con tim, đã dẫn ông đến hành vi trộm cắp (Giăng 12:6), điều này cuối cùng khiến Giu-đa phản Chúa.

Thật là một bài học đáng sợ cho tất cả chúng ta về mối nguy hiểm mà lòng tham có thể mang lại. Những gì tưởng chừng như một điều nhỏ nhặt, một mong muốn đơn giản của tấm lòng, lại có thể dẫn đến tai họa và sự hư mất đời đời.

Lúc ấy là một thời gian đầy thích thú và phấn khởi để làm một thuộc viên của hội thánh. Sau sự tuôn đổ mạnh mẽ của Đức Thánh Linh trong ngày Lễ Ngũ Tuần, các sứ đồ đang rao giảng phúc âm bằng quyền năng, và hàng ngàn người tham gia hội thánh.

“Khi đã cầu nguyện, thì nơi nhóm lại rúng động; ai nấy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, giảng đạo Đức Chúa Trời cách dạn dĩ. Vả, người tin theo đông lắm, cứ một lòng một ý cùng nhau. Chẳng ai kể của mình là của riêng; nhưng kể mọi vật là của chung cho nhau” (Công vụ 4:31, 32).

Thật là một đặc ân cho A-na-nia và Sa-phi-ra đã có được, là một phần của Hội thánh ban đầu, chứng kiến ​​sự phát triển và tỏ bày của Đức Thánh Linh một cách rõ rệt như vậy. “Vì trong tín đồ không ai thiếu thốn cả, bởi những người có ruộng hay nhà, đều bán đi, bán được bao nhiêu tiền cũng đem đến; đặt dưới chân các sứ đồ; rồi tùy theo sự cần dùng của mỗi người mà phát cho” (Công vụ 4:34, 35).

Chính trong khung cảnh này, A-na-nia và Sa-phi-ra, rõ ràng là bị cảm xúc bởi những gì đang xảy ra và muốn trở thành một phần của nó, đã quyết định bán một số tài sản và đóng góp số tiền thu được cho Hội thánh. Mọi việc tiến triển rất khả quan.

Đọc Công vụ 5:1–11. Bạn nghĩ điều gì tồi tệ hơn, giữ lại một phần tiền hay nói dối về nó? Tại sao phải có sự trừng phạt khắc nghiệt đến vậy?

Lúc đầu, thoạt như họ thành tâm muốn cống hiến cho sứ mạng. Tuy nhiên, “sau đó, A-na-nia và Sa-phi-ra đã làm Đức Thánh Linh đau buồn vì họ đã nhượng bộ với cảm giác thèm muốn. Họ bắt đầu hối hận về lời hứa của mình và sớm đánh mất ảnh hưởng ngọt ngào của ân phước đã nung nấu trong lòng họ với lòng khao khát được làm những việc lớn lao cho Đấng Christ.”—Ellen G. White, The Acts of the Apostles, trang 72. Nói cách khác, mặc dù họ đã bắt đầu với những sự thôi thúc tốt nhất, nhưng sự ham hố của lòng họ đã khiến họ phải đưa ra một bề ngoài giả dối để che đậy sự thật của lòng họ.

“Cả Hội thánh đều rất sợ hãi, cho đến người nào nghe tin cũng vậy” (Công vụ 5:11). Sau sự việc này, chắc hẳn mọi người đã phải cẩn thận hơn trong việc hoàn trả phần mười của mình. Nhưng chủ đích của câu chuyện đáng buồn này được ghi lại trong Kinh Thánh không phải để cảnh báo về sự trung thành trong việc hoàn trả phần mười. Nó được ghi lại để dạy chúng ta gì về nơi mà lòng tham có thể dẫn chúng ta đến?

Lòng tham là một vấn đề của con tim và cũng giống như sự kiêu hãnh và ích kỷ, thường không được lưu tâm đến, đó là lý do tại sao nó có thể gây chết người và lừa dối cá nhân mỗi người dễ dàng. Cố gắng chống chọi các tội lỗi dễ thấy đã là khó như các tội: nói dối, tà dâm, trộm cắp, thờ hình tượng, vi phạm ngày Sa-bát. Nhưng đây là những hành vi bày tỏ ra ngoài, là điều mà chúng ta phải suy nghĩ toan tính trước khi thực hiện. Nhưng để tự mình vượt qua những ý tưởng và sự suy nghĩ xấu xa? Việc đó thì không phải chuyện dễ.

Đọc 1 Cô-rinh-tô 10:13. Lời hứa nào được đưa ra ở đây, và tại sao điều này lại quan trọng để hiểu nó trong bối cảnh của lòng tham muốn?

Vậy thì, trong quyền năng của Đức Chúa Trời, chúng ta có thể được bảo vệ như thế nào để chống lại tội lỗi lừa dối nguy hiểm này?

1. Hãy quyết định phục vụ và lệ thuộc vào Đức Chúa Trời và trở thành một phần của gia đình Ngài. “Ngày nay hãy chọn ai mà mình muốn phục sự; . . . nhưng ta và nhà ta sẽ phục sự Đức Giê-hô-va” (Giô-suê 24:15).

2. Hằng ngày hãy cầu nguyện và nhớ lời cầu nguyện chung trong Ma-thi-ơ 6:13, “Xin chớ để chúng tôi bị cám dỗ, mà cứu chúng tôi khỏi điều ác! Vì nước, quyền, vinh hiển đều thuộc về Cha đời đời.” Khi cảm thấy tham muốn điều gì đó mà bạn biết rằng mình không nên có, hãy cầu nguyện về điều đó, tuyên bố những lời hứa trong Kinh Thánh để chiến thắng, chẳng hạn như 1 Cô-rinh-tô 10:13.

3. Thường xuyên học Kinh Thánh. “Tôi đã giấu lời Chúa trong lòng tôi, Để tôi không phạm tội cùng Chúa” (Thi thiên119:11).

Đức Chúa Giê-su đã giải quyết vấn đề con người và tội lỗi. Ngài đã bị cám dỗ trong mọi sự cũng như chúng ta. Và để có quyền năng chống lại những sự cám dỗ, Chúa đã cầu nguyện thâu đêm với Cha Ngài. Đức Chúa Giê-su đã không lìa thế gian này cho đến khi Ngài đã được rèn giũa trên bước đường làm gương cho chúng ta và hứa ban quyền năng để giúp mọi người có thể sống một đời sống đức tin và vâng phục—hầu họ phát triển cá tính giống như Đấng Christ.

“Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va đang khi mình gặp được; hãy kêu cầu đang khi Ngài ở gần! Kẻ ác khá bỏ đường mình, người bất nghĩa khá bỏ các ý tưởng; hãy trở lại cùng Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ thương xót cho, hãy đến cùng Đức Chúa Trời chúng ta, vì Ngài tha thứ dồi dào” (Ê-sai 55:6, 7).

Nếu có, hậu quả nào trong cuộc sống của chính bạn bởi lòng tham? Bạn đã học được những bài học gì? Bạn có thể vẫn cần học gì từ các kinh nghiệm ấy?

Trong cuộc chinh phục Giê-ri-cô, A-can không phải là người duy nhất mang vàng bạc trở về trại Y-sơ-ra-ên. Giô-suê đã bảo các người nam hãy mang vàng bạc và các bình bằng đồng thau và sắt vào trong kho của nhà Đức Chúa Trời (Giô-suê 6:19, 24). Mọi thứ khác sẽ phải bị thiêu hủy. Nhưng A-can, là kẻ duy nhất giữ lại một cái gì đó cho riêng mình. “Trong số hàng triệu người Y-sơ-ra-ên, chỉ có một người, trong giờ chiến thắng và đoán phạt nghiêm trọng ấy, đã dám vi phạm mệnh lệnh của Đức Chúa Trời. Sự thèm muốn của A-can bị kích thích khi nhìn thấy chiếc áo choàng Si-nê-a đắt giá; ngay cả khi vì nó mà anh ta phải đối mặt với cái chết, A-can vẫn còn gọi nó là ‘chiếc áo đẹp của người Ba-by-lôn.’ Tội lỗi này đã dẫn đến tội lỗi khác, và anh ta đã tự cất riêng cho mình những bạc vàng dành cho kho của Chúa—A-can đã cướp đi của Đức Chúa Trời những trái đầu mùa của xứ Ca-na-an.”—Ellen G. White, Patriarchs and Prophets, trang 496.

Trong bảng liệt kê của Phao-lô về các dấu hiệu của ngày cuối cùng, hai mục đầu tiên liên quan đến thái độ của chúng ta đối với tiền bạc và của cải. “Hãy biết rằng trong ngày sau rốt, sẽ có những thời kỳ khó khăn. Vì người ta đều tư kỷ, tham tiền,” (2 Ti-mô-thê 3:1, 2). Ích kỷ và yêu tiền là những mô tả đáng kể về con người trong những ngày cuối cùng—thời đại của chúng ta đây.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN:

  1. Đọc 1 Ti-mô-thê 6:6–10: “Vả, sự tin kính cùng sự thỏa lòng, ấy là một lợi lớn. Vì chúng ta ra đời chẳng hề đem gì theo, chúng ta qua đời cũng chẳng đem gì đi được. Như vậy, miễn là đủ ăn đủ mặc thì phải thỏa lòng; còn như kẻ muốn nên giàu có, ắt sa vào sự cám dỗ, mắc bẫy dò, ngã trong nhiều sự tham muốn vô lý thiệt hại kia, là sự làm đắm người ta vào sự hủy diệt hư mất. Bởi chưng sự tham tiền bạc là cội rễ mọi điều ác, có kẻ vì đeo đuổi nó mà bội đạo, chuốc lấy nhiều điều đau đớn.”. Trong lớp, hãy nói về những tấm gương của những kẻ, vì ham mê tiền bạc, đã “đâm sâu vào bản thân [và những người khác] với nhiều nỗi buồn.” Có rất nhiều ví dụ, phải không? Làm thế nào chúng ta có thể tìm được sự cân bằng phù hợp, biết rằng chúng ta cần tiền để kiếm tiền nhưng không rơi vào cái bẫy mà Phao-lô cảnh báo ở đây?
  2. Ngoài tiền bạc, còn có những thứ nào khác mà chúng ta có thể thèm muốn?
  3. Sự khác biệt giữa mong muốn chính đáng đối với một cái gì đó và sự thèm muốn là gì? Khi nào một mong muốn chính đáng về một thứ gì đó có thể biến thành sự thèm muốn?
Bài Học 8, 18 — 24 Tháng 2, 2023

Kế Hoạch Để Thành Công

CÂU GỐC: “Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta, vì biết rằng anh em sẽ bởi Chúa mà được cơ nghiệp làm phần thưởng. Hãy hầu việc Đấng Christ, tức là Chúa” (Cô-lô-se 3:23–24).

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Truyền đạo 12:1; Sáng thế Ký 2:15; 1 Ti-mô-thê 5:8; Cô-lô-se 3:23, 24; Sáng thế Ký 39:2–5; Châm ngôn 3:5–8.

Hầu hết người ta ai cũng muốn sống một cuộc sống “thành công” và hạnh phúc. Dĩ nhiên, trong một thế giới sa đọa, nơi mà bi kịch và tai họa có thể ập đến thình lình hay tức thì, mục tiêu này có thể không phải lúc nào cũng dễ dàng đạt được.

Kế đến, câu hỏi đặt ra là chúng ta định nghĩa “thành công” như thế nào. Có trường hợp của Giô-sép ở Ai Cập; Nếu đã từng có một cuộc sống thành công, thì chắc chắn trường hợp Giô-sép sẽ là một bằng chứng, phải không? Từ nhà tù đi đến cung điện, là một loại thành công. Nhưng trên phương diện khác, phần ông Giăng Báp-tít thì sao? Ông đã phải vào tù và kết cuộc là bị chém đầu. Như vậy thì cuộc sống ông thành công như thế nào? Một lần nữa, tất cả phụ thuộc vào cách bạn định nghĩa “thành công”.

Tuần này chúng ta sẽ xem xét ý tưởng của sự “thành công” dựa trên phương diện quản gia và những nguyên tắc tài chính cơ bản. Bất kể chúng ta là ai hay sống ở đâu, tiền bạc và tài chính sẽ luôn là một phần trong cuộc sống, cho dù chúng ta có muốn hay không. Như vậy, có những phương pháp thực tế nào mà chúng ta cần nắm vững, mặc dù nó chưa chắc bảo đảm sự “thành công”, nhưng ít ra nó vẫn có thể giúp chúng ta tránh được những cạm bẫy và sai lầm chính yếu làm cho việc quản gia thành công trở nên khó khăn hơn?

Truyền đạo 12:1. Sứ điệp nào trong những lời này có cho chúng ta?

Khi một người thanh thiếu niên trưởng thành, thì những suy nghĩ sẽ đến với họ về việc thế nào để đáp ứng cho những nhu cầu căn bản—thức ăn, áo quần và chỗ ở. Chính Đức Chúa Giê-su đã cho chúng ta biết cách đặt ưu tiên các nhu cầu của mình khi Ngài phán, “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” (Ma-thi-ơ 6:33). Tuy nhiên, với những người lớn tuổi và đã không chọn Đức Chúa Giê-su khi còn trẻ, vẫn còn thời gian để họ có những quyết định đúng đắn về việc quản lý.

Như chúng ta đã thấy trong Sáng thế Ký 28:20–22, Gia-cốp đã làm một số chọn lựa và quyết định quan trọng cho đời mình, cả về tinh thần lẫn tài chính. Trong giấc chiêm bao, Chúa đã giới thiệu chính Ngài với Gia-cốp là “Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, tổ phụ ngươi, cùng là Đức Chúa Trời của Y-sác” (Sáng thế Ký 28:13). Sau đó, như một phần của lời thề nguyện với Đức Chúa Trời, Gia-cốp nói, “Đức Giê-hô-va sẽ là Đức Chúa Trời tôi” (Sáng thế Ký 28:21).

Đọc Sáng thế Ký 29:9–20. Điều gì quan trọng về thời điểm của sự kiện này trong cuộc đời của Gia-cốp?

Sau khi Gia-cốp đã đưa ra những lời cam kết về đời thuộc linh và tài chính của mình với Đức Chúa Trời, Ngài đã hướng dẫn chàng đến Ra-chên bên giếng nước (xin xem Sáng thế Ký 29:9–20). Bạn nên làm những quyết định thuộc linh cũng như quyết định sự nghiệp của mình trước khi tiến tới hôn nhân. Người phối ngẫu trong tương lai của bạn nên biết rằng “họ sẽ gặp phải những điều gì”. Người này có phải là một Cơ Đốc nhân tận tâm không? Anh ấy hoặc cô ấy sẽ hoạt động trong lĩnh vực nào? Người này sẽ là một giáo viên, một y tá, một luật sư, một người lao động, hay bất cứ nghề nghiệp gì? Tôi sẽ cam kết vào một cuộc sống nào? Các câu hỏi khác cần được giải đáp trước khi cam kết hôn nhân là: người ấy đã hoàn tất trình độ học vấn nào? Số nợ nào sẽ đi theo với cuộc hôn nhân? Tôi có sẵn sàng chấp nhận tình huống này như một phần trách nhiệm của mình không?

Đọc 2 Cô-rinh-tô 6:14, 15. Tại sao nguyên tắc này rất cần được xem xét khi tìm kiếm bạn đời? Tuy nó không đảm bảo một cuộc hôn nhân tốt đẹp, nhưng tại sao nó lại giúp cho cơ hội có một cuộc hôn nhân tốt đẹp hơn?

Trừ khi bạn là người giàu có một cách độc lập hoặc là người thừa hưởng tài sản mà cha mẹ để lại để bạn không bao giờ phải làm việc một ngày nào trong đời (nếu bạn đọc nhiều câu chuyện về những đứa trẻ này, tiền bạc để lại hầu như là một điều may mắn, nhưng lại cũng thường dẫn đến bi kịch cho họ khi trưởng thành), bạn sẽ sớm hay muộn cần phải làm việc để kiếm sống. Dĩ nhiên, lý tưởng là tìm việc làm trong ngành mà bạn đam mê và lại có thể mang lại lương hướng cao, hay tìm được việc phù hợp với những gì mình đã được huấn luyện và đào tạo để làm suốt cuộc đời “lao động” của mình. Đó là lý tưởng; tuy nhiên, không phải lúc nào mọi điều cũng xảy ra như vậy.

Đọc Sáng thế Ký 2:15 (xem thêm Truyền đạo 9:10 và 2 Tê-sa-lô-ni-ca 3:8–10). Sự thật rất rõ ràng rằng, ngay cả trước khi tội lỗi xâm nhập, A-đam (và chắc chắn là cả Ê-va) đã được giao trách nhiệm của việc làm? Làm thế nào điều này có thể giải thích tại sao, như đã nói ở trên, những người không bao giờ phải làm việc lại thấy hoàn cảnh của họ là một sự rủa sả?

Việc làm này rõ ràng không phải là một hình phạt. Nó được thiết lập là vì lợi ích của họ. Có nghĩa là, ngay cả trong Vườn Ê-đen, ngay cả trong một thế giới không có tội lỗi, không có chết chóc và không có đau khổ, Đức Chúa Trời biết rằng con người cần phải làm việc.

“Và A-dam được giao công việc chăm sóc Khu vườn. Đấng Tạo Hóa biết rằng A-đam không thể hạnh phúc nếu không có việc làm. Vẻ đẹp của Khu vườn mang lại niềm vui thích cho chàng, nhưng điều này là chưa đủ. Chàng phải lao động để vận động các cơ quan của cơ thể đã được dựng nên cách tuyệt vời. Nếu hạnh phúc là không làm chi cả, con người, trong tình trạng vô tội thánh thiện của mình, đã có thể bị thất nghiệp. Nhưng Đấng dựng nên con người, biết điều gì sẽ là hạnh phúc cho họ; và chẳng lâu sau khi Ngài đã dựng nên con người, Ngài đã giao cho chàng việc làm đã chỉ định cho. Lời hứa về vinh quang trong tương lai, và mệnh lệnh mà con người phải chăm chỉ làm việc kiếm ăn hàng ngày, đều xuất phát từ cùng một ngai trời.”—Ellen G. White, Our High Calling, trang 223.

Thế nhưng, ngay cả sau Sự Sa ngã, khi (cũng như mọi điều khác) việc làm bị vấy bẩn bởi tội lỗi, Đức Chúa Trời đã phán với A-đam rằng: “Đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn” (Sáng thế Ký 3:17). Hãy lưu ý, Đức Chúa Trời đã nguyền rủa mặt đất “vì ngươi,” vì lợi ích của A-đam, với ý tưởng rằng việc làm sẽ là thứ mà chàng cần, nhất là vì chàng đã là một nhân loại sa ngã.

Điều gì về việc làm mà, về mặt lý tưởng, làm nó có thể thành một điều may mắn cho chúng ta?

Như chúng ta đã thấy, Đức Chúa Trời dự định cho con người làm việc theo khả năng này hay năng lực khác. Phần đời này của chúng ta (những năm làm việc) thường dài khoảng 40 năm. Đối với nhiều người, đây là thời điểm nuôi dưỡng và dạy dỗ con cái, là khi tậu mãi nhà cửa hay mua sắm những thứ quan trọng khác. Đây có thể là một thời gian rất căng thẳng về mặt tài chính. Đây là thời điểm rất nhạy cảm vì cả gia đình đang học cách để làm việc cùng nhau, và các thành viên đang tạo ra những mối quan hệ gắn bó suốt đời. Căng thẳng tài chính có thể phá hủy cuộc hôn nhân vào thời điểm này, và đáng tiếc là điều ấy thường xảy ra. Với các gia đình mà cả hai bên cùng có cam kết theo sự dạy dỗ Cơ Đốc và sẵn sàng tuân theo các nguyên tắc Kinh Thánh thì ổn định hơn nhiều.

Đọc 1 Ti-mô-thê 5:8; Châm ngôn 14:23; và Cô-lô-se 3:23, 24. Chúng ta có thể rút ra những điểm quan trọng nào từ các câu này về tài chính trong gia đình?

Trong nhiều trường hợp, chồng là trụ cột chính đi làm nuôi gia đình, tuy thường là cả hai vợ chồng đều đi làm. Dĩ nhiên, những trường hợp bất ngờ có thể phát sinh—ốm đau, suy thoái kinh tế, hay bất cứ điều gì—khiến lý tưởng này trở nên khó khăn. Khi đó, mọi người cần điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh.

Con cái sinh ra trong giai đoạn này của cuộc đời được gọi là “cơ nghiệp bởi Đức Giê-hô-va mà ra” (Thi thiên 127:3). Chúng ta phải nhớ rằng con cái đến trong cuộc đời mình mang theo với chúng một trách nhiệm lớn lao cho cha mẹ. Mục tiêu của các bậc cha mẹ Cơ Đốc là huấn luyện con cái trở thành những người trưởng thành độc lập trong cuộc đời này và giúp chúng có được sự sống đời sau. Dưới đây là ba điểm để giúp cha mẹ:

1. Cung cấp một môi trường gia đình Cơ Đốc. Điều này gồm có việc gia đình lễ bái thường xuyên và thích thú. Đi nhà thờ đều đặn, tham gia Trường Sa-bát và chương trình thờ phượng, cũng như tập cho con trẻ thói quen dâng phần mười và các của dâng, và cha mẹ trung tín hoàn trả phần mười và dâng hiến. Đây là những thói quen lớn cần hình thành trong giai đoạn đầu đời của trẻ.

2. Dạy cho chúng sự sẵn sàng làm việc và sự xem trọng việc làm đối với chúng. Trẻ con sẽ khám phá ra rằng sự siêng năng và liêm chính trong công việc luôn được chú ý, đánh giá cao và được khen thưởng. Chúng sẽ học biết rằng tiền bạc có được là do nơi kết quả của việc chúng ta dành thời gian cho người khác bằng cách thực hiện những công việc có giá trị đối với họ.

3. Giúp con cái có được một nền giáo dục tốt. Giáo dục ngày nay rất đắt đỏ—nhất là nền giáo dục Cơ Đốc ở các trường tư. Nhưng đối với các bậc cha mẹ có kế hoạch cho con cái của họ không chỉ trong cuộc sống trên đời này mà còn cho cả đời sau, thì điều ấy rất đáng chi trả.

Tuy nhiên, dầu bậc làm cha mẹ có làm gì đi chăng nữa, không ai có thể đảm bảo về hướng đi của con cái họ. Tại sao rất quan trọng là cha mẹ không nên tự trách mình về những lựa chọn sai lầm mà đứa con trưởng thành của họ có thể mắc phải?

Giai đoạn khác của một cuộc đời “thành công”, giai đoạn sau cùng, là giai đoạn có thể là thú vị và hưởng nhàn nhất—nếu những quyết định của những năm trước đó là khôn ngoan và không bị hủy hoại bởi những sự kiện bất ngờ. Trong một hoàn cảnh lý tưởng, cha mẹ đã nuôi dạy con cái trở thành những người trưởng thành độc lập, nợ nhà đã trả hết, xe cộ đã có rồi, không còn nợ nần chồng chất và có nguồn lợi tức đủ để đáp ứng các nhu cầu của một gia đình người cao niên.

Đức Chúa Trời kêu gọi con cái Ngài đạt đến tiêu chuẩn cao hơn trong việc làm và cuộc sống. Tiêu chuẩn ấy chính là luật pháp của Đức Chúa Trời được ghi khắc trong lòng chúng ta (xin xem Giê-rê-mi 31:33) và được phản chiếu qua cá tính của chúng ta. Khi xã hội suy sụp và sự dạy dỗ Cơ Đốc bị loãng đi và giảm thiểu, thì việc sống và làm việc của cá nhân mỗi Cơ Đốc nhân càng trở nên quan trọng hơn và phải ở trên mức độ bị chê trách càng hơn. Kinh Thánh nói, “Danh tiếng tốt còn hơn tiền của nhiều; Và ơn nghĩa quí hơn bạc và vàng” (Châm ngôn 22:1).

Kinh Thánh ghi lại những trường hợp chủ nhân công nhận rằng họ được ban phước vì có một người làm công tốt và tin kính. Khi Gia-cốp muốn rời xa bố vợ là La-ban để mang gia đình trở về quê hương mình, La-ban đã khuyên ông đừng ra đi, nói rằng, “Ước gì cậu được nhờ ơn cháu! Cậu cũng đoán rõ ràng Đức Giê-hô-va đã vì cháu mà ban phước cho cậu vậy” (Sáng thế Ký 30:27). Và khi Giô-sép bị bán làm nô lệ ở Ai Cập, chủ của chàng, Phô-ti-pha, cũng nhận xét tương tự về công việc của Giô-sép và thưởng cho chàng một cách xứng đáng.

Đọc Sáng thế Ký 39:2–5. Mặc dù các câu này không cho chúng ta biết chi tiết, nhưng bạn có thể tưởng tượng Giô-sép đã làm gì khiến chủ nhân của chàng có thiện cảm với chàng như vậy?

“Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm” (1 Cô-rinh-tô 10:31). Vì vậy, trong công việc và quản lý tài chính và bất cứ điều gì chúng ta làm, chúng ta nên làm tất cả vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Ngài là Đấng ban cho chúng ta kiến ​​thức và năng lực để thành công trong cuộc sống.

“Hỡi Đức Giê-hô-va! sự cao cả, quyền năng, vinh quang, toàn thắng, và oai nghi đáng qui về Ngài; vì muôn vật trên các từng trời và dưới đất đều thuộc về Ngài. Đức Giê-hô-va ôi! nước thuộc về Ngài; Ngài được tôn cao làm Chúa tể của muôn vật. Hoặc sự giàu có, hoặc sự vinh quang, đều do Chúa mà đến, và Chúa quản trị trên muôn vật; quyền năng và thế lực ở nơi tay Chúa: tay Chúa khiến cho được tôn trọng và ban sức mạnh cho mọi người” (1 Sử Ký 29:11, 12).

Bạn đang tuân theo những nguyên tắc nào, không chỉ trong việc làm mà còn trong cuộc sống, nói chung? Bạn có thể cần phải thực hiện những thay đổi nào?

Có rất nhiều chuyên gia quản lý tiền bạc thế tục ở ngoài kia, nhưng Đức Chúa Trời đã cảnh báo chúng ta về việc tham khảo ý kiến ​​của họ về cách quản lý tài sản mà Ngài đã giao phó cho chúng ta. “Phước cho người nào chẳng theo mưu kế của kẻ dữ, Chẳng đứng trong đường tội nhân, Không ngồi chỗ của kẻ nhạo báng; Song lấy làm vui vẻ về luật pháp của Đức Giê-hô-va, Và suy gẫm luật pháp ấy ngày và đêm. Người ấy sẽ như cây trồng gần dòng nước, Sanh bông trái theo thì tiết, Lá nó cũng chẳng tàn héo; Mọi sự người làm đều sẽ thạnh vượng” (Thi thiên 1:1–3).

Như thế, người nào yêu thích luật pháp của Chúa (luật pháp ở đây có thể hiểu rộng hơn là Lời Chúa) sẽ được phước hạnh. Còn đơn giản nào hơn? Và người ấy sẽ thịnh vượng—thành công.

Đọc Châm ngôn 3:5–8. Làm thế nào để chúng ta áp dụng nguyên tắc này trong các vấn đề tài chính căn bản nhất của mình?

Nhìn tổng quát về sự cố vấn của Kinh Thánh về quản lý tài chính cho chúng ta những điểm rất có giá trị để làm theo. Hãy xem xét bảy điểm chính sau đây:

1. Hãy tổ chức. Xây dựng kế hoạch chi tiêu (Châm ngôn 27:23, 24). Nhiều gia đình chỉ sống vào kỳ lương này sang kỳ lương khác. Nếu không có một kế hoạch đơn giản để có thêm thu nhập, chi tiêu và tiết kiệm, cuộc sống sẽ căng thẳng hơn rất nhiều.

2. Tiêu ít hơn số tiền bạn kiếm được. Quyết tâm sống trong khả năng của bạn (Châm ngôn 15:16). Nhiều gia đình ở các nước phương Tây thực sự chi tiêu nhiều hơn số tiền họ kiếm được. Điều này chỉ có thể thực hiện được vì sự sẵn có thẻ tín dụng và dễ vay nợ. Nhiều vấn đề càng xảy ra thêm với những người đang mắc nợ.

3. Tiết kiệm một phần từ mỗi kỳ lương (Châm ngôn 6:6–8). Chúng ta tiết kiệm để có thể mua sắm được những món cần yếu lớn (xe, tủ lạnh) trong tương lai và để trang trải các chi phí ngoài kế hoạch, chẳng hạn như tai nạn hoặc bệnh tật. Một số tiền tiết kiệm có thể được sử dụng để lập kế hoạch cho thời gian khi tuổi cao, chúng ta không còn khả năng làm việc.

4. Tránh nợ như tránh COVID-19. (Châm ngôn 22:7). Lãi suất là một khoản chi phí mà bạn không cần phải có. Một người hoặc một gia đình đang sống trong nợ nần—nghĩa là, sống bằng tiền vay mượn, tức là họ thực sự đang sống hôm nay bằng số tiền mà họ mong đợi sẽ kiếm được trong tương lai. Nếu có bất kỳ thay đổi nào trong cuộc sống, thì có thể dẫn đến tình trạng bối rối nghiêm trọng về tài chính.

5. Hãy là một người lao động siêng năng. “Lòng kẻ biếng nhác mong ước, mà chẳng có chi hết; Còn lòng người siêng năng sẽ được no nê” (Châm ngôn 13:4).

6. Hãy trung tín với Chúa về tài chính. (Phục truyền 28:1–14). Không một gia đình nào có thể đủ khả năng sống nếu không có sự ban phước của Đức Chúa Trời.

7. Hãy nhớ rằng địa cầu này không phải là ngôi nhà thực sự của chúng ta. Cách chúng ta quản lý nói lên rất nhiều về các ưu tiên tối thượng của chúng ta nằm ở đâu (xin xem Ma-thi-ơ 25:14–21).

“Không có kế hoạch kinh doanh hoặc kế hoạch cuộc sống nào có thể tốt hoặc hoàn chỉnh nếu chỉ dự phòng cho những năm ngắn ngủi của cuộc sống hiện tại này và không có dự phòng cho tương lai vô tận . . . Không ai có thể cất giữ kho báu trên trời mà không hết lòng trau dồi đức hạnh và nhân cách khi còn ở dưới đất này.”—Ellen G. White, Education, trang 145.

“Điều nằm ở nền tảng của sự liêm chính trong công việc Chúa và thành công thực thụ là sự công nhận quyền sở hữu của Đức Chúa Trời. Đấng Tạo Hóa của vạn vật, Ngài là chủ sở hữu mọi sự nguyên thủy. Chúng ta là những người quản gia của Ngài. Tất cả những gì chúng ta có là sự tin cậy nơi Ngài, được sử dụng theo sự chỉ dẫn của Ngài.”—Education, trang 137.

Vì bổn phận phải chu toàn sự chu cấp cho gia đình, nhiều khi chúng ta nghĩ rằng việc làm của mình chỉ đơn giản là để mang lại lợi tức. Nhưng là Cơ Đốc nhân, chúng ta cũng phải thực hiện phần trách nhiệm của mình trong sứ mạng lớn lao mà Đức Chúa Giê-su đã giao phó cho mọi kẻ theo Ngài. Sau khi trích dẫn sứ mạng ủy thác này của lời Chúa trong Mác 16:15, bà Ellen G. White đã viết, “Không phải tất cả đều được kêu gọi trở thành người truyền giáo hoặc người truyền giáo theo nghĩa thông thường của danh từ này; nhưng tất cả đều có thể là người đồng công với Ngài trong việc ban bố ‘những món quà vui mừng’ cho đồng loại của họ. Đối với tất cả mọi người, lớn hay nhỏ, có học hay dốt nát, già hay trẻ, mệnh lệnh được ban cho hết thảy.”—Education, trang 264.

“Chúng ta cần tuân theo chặt chẽ hơn kế hoạch của Đức Chúa Trời cho cuộc sống. Cố gắng hết sức trong công việc gần nhất, dấn thân theo đường lối của mình cho Đức Chúa Trời, và theo dõi những chỉ dẫn về sự quan phòng của Ngài—đây là những quy tắc đảm bảo sự hướng dẫn an toàn trong việc lựa chọn một nghề nghiệp.”—Education, trang 267.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN:

  1. Là Cơ đốc nhân, chúng ta định nghĩa thế nào là một cuộc đời “thành công”? Sự khác biệt có thể là gì giữa những gì thế giới định nghĩa là thành công và những gì chúng ta (lý tưởng) nên làm? Lấy ví dụ, Giăng Báp-tít. Bạn sẽ định nghĩa thế nào về cuộc đời của ông, kết thúc trong hầm tù tăm tối, tất cả chỉ vì ý thích của một người đàn bà độc ác? Bạn có thể gọi nó là thành công chăng? Bạn có thể đưa ra những lý do nào cho câu trả lời của mình?
  2. Chúng ta giải thích thế nào về thực tế là có nhiều người rất “thành công” mà họ chẳng tuân theo nguyên tắc nào trong Kinh Thánh về quản lý tài sản hoặc trong nếp sống nói chung? Hoặc những người cố gắng làm theo họ nhưng không thành công thì sao? Có lẽ họ bị bệnh tật, hoặc tai họa ập đến. Chúng ta hiểu những tình huống này như thế nào?
Bài Học 7, 11 — 17 Tháng 2, 2023

Cho Những Kẻ Hèn Mọn Nhất

CÂU GỐC: “Bấy giờ, vua sẽ phán cùng những kẻ ở bên hữu rằng: Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất” (Ma-thi-ơ 25:34).

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Lu-ca 4:16–19; Ê-sai 62:1, 2; Phục truyền 15:11; Ma-thi-ơ 19:16–22; Lu-ca 19:1–10; Gióp 29:12–16.

Kinh Thánh thường nói về những khách lạ (đôi khi gọi là người lưu lạc không phải người cùng xứ và ngôn ngữ), mồ côi cha, và những góa phụ. Nhóm này có thể là những người mà Đức Chúa Giê-su gọi là “rất hèn mọn nầy của anh em ta” (Ma-thi-ơ 25:40).

Làm thế nào chúng ta có thể nhận diện ai là những người này ngày nay? Những khách lạ vào thời Kinh Thánh là những người phải rời bỏ quê hương của họ, có lẽ vì chiến tranh hoặc đói kém. Tương đương trong thời đại của chúng ta có thể là hàng triệu người tị nạn đã trở nên cùng khốn vì phải ở vào những hoàn cảnh mà không do họ chọn.

Trẻ mồ côi cha là trẻ em mất cha do chiến tranh, tai nạn, bệnh tật. Nhóm này cũng có thể kể cả những trẻ có cha đang trong tù hoặc không ở cùng với chúng. Quả là một lãnh vực cần có mục vụ thật rộng lớn ở đây.

Những người góa bụa là những người đã mất vợ hoặc chồng vì lý do giống như các trẻ mồ côi cha. Nhiều người là chủ các gia đình chỉ có cha mẹ đơn thân và họ có thể dùng sự giúp đỡ mà hội thánh có thể cung cấp.

Như chúng ta sẽ thấy trong tuần này, vì chúng ta là người quản lý công việc của Đức Chúa Trời, nên việc giúp đỡ người nghèo không chỉ là một lựa chọn. Đó là theo gương của Đức Chúa Giê-su và tuân theo mệnh lệnh của Ngài.

Khi mới bắt đầu chức vụ truyền giáo của mình, Chúa Giê-su đã đi đến Na-xa-rét, trong vùng Ga-li-lê. Đây là quê hương của Ngài, và người dân địa phương đã nghe nói về công việc và phép lạ của Ngài. Theo thói quen, Chúa tham dự các buổi lễ ngày Sa-bát trong nhà hội. Mặc dù Ngài không phải là một giáo sư Do Thái chính thức, nhưng người phục vụ nhà hội đã trao cho Ngài cuộn sách Ê-sai và yêu cầu Ngài đọc Sách Thánh. Đức Chúa Giê-su đọc Ê-sai 61:1, 2.

Đọc Lu-ca 4:16–19 và so sánh với Ê-sai 61:1, 2 (xin xem thêm Lu-ca 7:19–23). Bạn nghĩ tại sao Đức Chúa Giê-su đã đặc biệt chọn câu Kinh Thánh này? Tại sao những câu này trong Ê-sai được xem là nói về Đấng Mê-si? Chúng tiết lộ gì về công việc của Đấng Mê-si?

Bởi vì các nhà lãnh đạo tôn giáo dường như đã không để ý đến những lời tiên tri nói về Đấng Mê-si phải chịu đau khổ và đã áp dụng sai những lời tiên tri chỉ về vinh quang của Sự Tái lâm của Ngài (điều này nhắc chúng ta về tầm quan trọng của sự hiểu biết lời tiên tri), hầu hết mọi người tin vào ý niệm sai lầm rằng sứ mệnh của Đấng Mê-si là giải phóng dân Y-sơ-ra-ên khỏi những kẻ chinh phạt và áp bức, là người La Mã. Nghĩ rằng sứ mệnh của Đấng Mê-si qua câu Ê-sai 61:1, 2 hẳn là một cú sốc thực sự.

Người nghèo thường bị khinh rẻ và coi thường bởi những quan chức vô đạo đức như những người thâu thuế, những người làm kinh doanh, và thậm chí cả những người láng giềng của họ. Người ta thường cho rằng nghèo đói là vì sự rủa sả của Chúa và tình trạng bất hạnh của họ hẳn là do lỗi của họ. Với lối suy nghĩ này, ít ai quan tâm đến người nghèo hay những hoàn cảnh bất hạnh của họ.

Tuy nhiên, tình yêu thương của Đức Chúa Giê-su đối với người nghèo là một trong những bằng chứng lớn nhất về vai trò Đấng Mê-si của Ngài, như được thấy qua cách Ngài trả lời câu hỏi của Giăng Báp-tít về Ngài có phải là Đấng Mê-si chăng (xin xem Ma-thi-ơ 11:1–6). “Giống như các môn đồ của Đấng Cứu Thế, Giăng Báp-tít không hiểu bản chất của vương quốc của Đấng Christ. Ông mong đợi Đức Chúa Giê-su lên ngôi vua Đa-vít; và khi thời gian trôi qua, và Đấng Cứu Rỗi không tuyên bố vương quốc của mình, Giăng trở nên băn khoăn và bối rối.”—Ellen G. White, The Desire of Ages, trang 215.

“Sự tin đạo thanh sạch không vết, trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, là: thăm viếng kẻ mồ côi, người góa bụa trong cơn khốn khó của họ, và giữ lấy mình cho khỏi sự ô uế của thế gian.” (Gia-cơ 1:27). Câu này giúp chúng ta đặt các ưu tiên tôn giáo như thế nào?

Trong các sách ở trong Kinh Thánh, các tác giả luôn nhắc đến sự chu cấp của Đức Chúa Trời cho người nghèo khó, người khách lạ, người góa bụa và mồ côi. Chúng ta có được sự dạy dỗ này kể từ lúc tại núi Si-nai. “Trải sáu năm ngươi hãy gieo trong đất, thâu lấy hoa lợi, nhưng qua năm thứ bảy hãy để đất hoang cho nghỉ; hầu cho kẻ nghèo khổ trong dân sự ngươi được nhờ lấy hoa quả đất đó, còn dư lại bao nhiêu, thú vật ngoài đồng ăn lấy. Cũng hãy làm như vậy về vườn nho và cây ô-li-ve” (Xuất Ê-díp-tô Ký 23:10, 11).

Đọc Lê-vi Ký 23:22 và Phục truyền 15:11. Tuy bối cảnh có thể khác với cuộc sống của chúng ta ngày nay, những nguyên tắc nào chúng ta có thể học được từ các câu này?

Thông thường, người ta hiểu rằng “anh em” ở đây dùng để chỉ những người Y-sơ-ra-ên hoặc anh chị em đồng đức tin. Chúng ta cũng nghĩ về họ như những người nghèo khó thật sự hoặc “rất hèn mọn nầy của anh em ta.” Thi thiên đưa ra hướng dẫn về cách chúng ta nên đối xử với những người cần được giúp đỡ. “Hãy đoán xét kẻ khốn cùng và người mồ côi; Hãy xử công bình cho người buồn rầu và kẻ túng ngặt. Khá cứu vớt kẻ khốn cùng và người thiếu thốn, Giải họ khỏi tay kẻ ác” (Thi thiên 82:3, 4). Đoạn văn này chỉ ra sự tham gia của chúng ta phải có trong những cách khác ngoài việc chỉ cung cấp thực phẩm.

Rồi cũng có những lời hứa cho những ai giúp đỡ những người khó khăn. “Ai cho người nghèo sẽ không thiếu thốn” (Châm ngôn 28:27). “Vua nào theo sự chân thật mà xét đoán kẻ nghèo khổ, Ngôi người sẽ được vững bền đời đời” (Châm ngôn 29:14). Và Vua Đa-vít lưu ý: “Phước cho người nào đoái đến kẻ khốn cùng! Trong ngày tai họa Đức Giê-hô-va sẽ giải cứu người” (Thi thiên 41:1). Do đó, điều này luôn được ưu tiên ở Y-sơ-ra-ên cổ đại cho dầu có lúc, người ta đã quên mất nó.

Ngược lại, ngay cả trong thời hiện đại hơn, đặc biệt là ở Anh, dưới tác động của cái được gọi là “Xã hội theo Học thuyết Darwin”, nhiều người nghĩ rằng không những không có mệnh lệnh đạo đức nào để giúp đỡ người nghèo, và họ còn cho rằng đúng ra, làm như vậy là sai. Thay vào đó, tuân theo các năng lực của thiên nhiên, trong đó kẻ mạnh sống sót bằng cái giá của kẻ yếu, “Những người theo thuyết xã hội Darwin” tin rằng việc giúp đỡ những người nghèo, những người bệnh tật, những người bất hạnh sẽ có hại cho xã hội bởi vì nếu họ cứ ngày càng đông lên, họ sẽ chỉ làm suy yếu cấu trúc xã hội của cả quốc gia nói chung. Tuy nghe quá tàn nhẫn, nhưng sự suy nghĩ này là sự bùng phát đương nhiên của niềm tin vào sự tiến hóa và những lời sai lầm mà nó công bố.

Như thế Phúc âm, với ý tưởng rằng Đấng Christ đã chết vì mọi người, nên ảnh hưởng thế nào đến cách chúng ta đối xử với mọi người, bất kể họ là ai?

Chúng ta không biết nhiều về người cai trị trẻ tuổi giàu có ngoài việc anh ta còn trẻ, một người có quyền quản trị và giàu có. Và anh ta cũng quan tâm đến những điều thuộc linh. Anh ta tràn đầy năng lượng nên đã chạy đến tìm Đức Chúa Giê-su (Mác 10:17). Anh phấn khởi khi học biết về sự sống đời đời. Câu chuyện này quan trọng đến nỗi nó được ghi lại trong cả ba sách Phúc âm: Ma-thi-ơ 19:16–22, Mác 10:17–22 và Lu-ca 18:18–23.

Ma-thi-ơ 19:16–22. Đức Chúa Giê-su có ý gì khi Ngài phán với người trai trẻ giàu có và quyền tước ấy: “Nếu ngươi muốn được trọn vẹn, hãy đi bán hết gia tài mà bố thí cho kẻ nghèo nàn, thì ngươi sẽ có của quí ở trên trời; rồi hãy đến mà theo ta” (Ma-thi-ơ 19:21)?

Đức Chúa Giê-su không yêu cầu hầu hết chúng ta bán tất cả những gì mình có để cho người nghèo. Nhưng với người trẻ tuổi này, tiền bạc hẳn đã là chúa tể của anh, và mặc dù câu trả lời của Chúa có vẻ khá nghiêm khắc, nhưng Ngài biết rằng đây là hy vọng cứu rỗi duy nhất của người trẻ tuổi này.

Kinh Thánh nói rằng anh ấy ra đi rất buồn bã vì anh ta rất giàu có, điều đó chứng tỏ anh ta tôn thờ tiền bạc của mình đến mức nào. Anh ta đã được ban cho sự sống đời đời và có một vị trí trong vòng những người thân cận nhất của Đức Chúa Giê-su (“Hãy đến theo Ta”—cùng chính những chữ mà Đức Chúa Giê-su dùng để kêu gọi 12 môn đồ). Nhưng chúng ta chẳng còn bao giờ nghe nhắc về người trẻ tuổi này một lần nữa. Anh ta đã đánh đổi sự vĩnh cửu để lấy của cải trần thế của mình.

Thật là một sự đánh đổi khủng khiếp, phải không? Thật là một ví dụ đáng buồn về việc không tuân theo “sự thỏa lòng bị trì hoãn” (xem tuần trước). Lựa chọn như người trẻ tuổi này đã làm là một sự lừa dối bởi vì bất kể điều gì cải vật chất có thể mang lại cho chúng ta bây giờ, sớm muộn gì chúng ta cũng chết và phải đối mặt với viễn cảnh của cõi vĩnh hằng. Và trong khi đó, rất nhiều người giàu đã phát hiện ra rằng sự giàu có của họ không mang lại cho họ sự bình yên và hạnh phúc như họ đã mong đợi; quả thực, trong nhiều trường hợp, điều ngược lại dường như đã xảy ra. Bao nhiêu tiểu sử đã được viết về rất nhiều người giàu đã khốn khổ như thế nào. Thật thế, trong tất cả lịch sử từng được ghi chép lại, một trong những sự mô tả hay nhất được kể về sự giàu có không mang lại lòng thỏa nguyện có thể được tìm thấy trong sách Truyền Đạo. Bất kể bài học nào khác mà người ta có thể rút ra từ nó, có một điểm rõ ràng là: tiền bạc không thể mua được bình yên và hạnh phúc.

“Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất; còn ai vì cớ ta và đạo Tin lành mà mất sự sống, thì sẽ cứu. Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? Hay là có người nào lấy chi mà đổi linh hồn mình ư?” (Mác 8:35–37). Mất sự sống mình vì phúc âm có nghĩa là gì?

Xa-chê là một người Do Thái giàu có làm giàu bằng nghề thâu thuế cho những người La Mã đáng ghét. Bởi vậy, và cũng vì ông ta và các người thâu thuế đòi bắt dân nộp thuế nhiều hơn số thuế thực sự phải nộp, nên Xa-chê bị dân thường ghét và bị gọi là “kẻ tội lỗi”.

Xa-chê sống ở Giê-ri-cô, một thành lớn nằm trên con đường giao thương với nhiều hoạt động buôn bán kinh doanh. Cuộc gặp gỡ của Xa-chê và Đức Chúa Giê-su không phải là một sự tình cờ. Xa-chê chắc đã có một niềm tin thuộc linh muốn thực hiện sự thay đổi trong cuộc sống của mình. Ông ta đã nghe nói về Đức Chúa Giê-su và muốn gặp Ngài. Chắc đã có tin loan truyền rằng Chúa và đoàn người theo Ngài sẽ đi đến Giê-ri-cô vào ngày hôm đó. Chúa cần phải đi ngang thành Giê-ri-cô từ Ga-li-lê, trong chuyến đi cuối cùng của Ngài đến Giê-ru-sa-lem. Những lời đầu tiên của Đấng Christ với Xa-chê cho thấy rằng, ngay cả trước khi vào thị trấn, Ngài đã biết tất cả về ông ta.

Đọc Lu-ca 19:1–10. Có những sự khác biệt giữa kinh nghiệm của người đàn ông giàu có này với Đức Chúa Giê-su và kinh nghiệm của người cai trị trẻ tuổi giàu có là gì?

Xa-chê và người cai trị trẻ tuổi giàu có có một số điểm giống nhau. Cả hai đều giàu có; cả hai đều muốn gặp Đức Chúa Giê-su, và cả hai đều muốn sự sống đời đời. Nhưng sau các điểm tương đồng ấy, họ thật khác nhau.

Chúng ta để ý thấy, khi Xa-chê nói rằng, “tôi lấy nửa gia tài mình mà cho kẻ nghèo” (Lu-ca 19:8), Đức Chúa Giê-su đã chấp nhận cử chỉ này như một biểu hiện của một kinh nghiệm hoán cải thực sự. Ngài không nói với ông ta, “Xin lỗi bạn, nhưng cũng giống như với người cai trị trẻ tuổi giàu có kia, phải là tất cả tài sản hoặc chẳng có chi cả. Một nửa là không chấp nhận được.” Tại sao? Rất có thể bởi vì, mặc dù Xa-chê chắc chắn thích sự giàu có của mình, nhưng đối với ông ta đó không phải là một vị thần ông ta tôn thờ như đối với người cai trị trẻ tuổi giàu có. Thật vậy, tuy chúng ta không biết Đức Chúa Giê-su có đặc biệt nói gì với ông ta, nhưng chính Xa-chê là người nói trước nhất về việc tặng tiền cho người nghèo. Trái lại, với người trai trẻ giàu có, Đức Chúa Giê-su phải nói trắng ra với người cai trị trẻ tuổi giàu có để anh ta cần từ bỏ tất cả; nếu không nó sẽ hủy hoại anh. Tuy Xa-chê, như bất kỳ người giàu có nào, cần phải cẩn thận trước sự nguy hiểm của sự giàu có, dường như ông ta đã kiểm soát được nó tốt hơn so với người cai trị trẻ tuổi giàu có.

“Khi người cai trị trẻ tuổi giàu có quay lưng lại với Đức Chúa Giê-su, các môn đồ đã ngạc nhiên trước câu nói của Thầy mình, ‘Người giàu vào nước thiên đàng thật khó biết bao!’ họ đã thốt lên với nhau rằng, ‘Vậy thì còn có ai được cứu nữa?’ Giờ đây, họ đã nhìn thấy một minh chứng về sự thật trong lời của Đấng Christ, “Điều gì người ta không làm được, Đức Chúa Trời có thể làm được” (Mác 10:24, 26; Lu-ca 18:27). Họ đã thấy làm thể nào, nhờ ân điển của Đức Chúa Trời, một người giàu có thể vào vương quốc Chúa.”—Ellen G. White, The Desire of Ages, trang 555.

Đọc Gióp 1:8. Gióp đã được chính Đức Chúa Trời mô tả như thế nào?

Thật tốt thay, khi chính Đức Chúa Trời còn gọi Gióp là “trọn vẹn” và “ngay thẳng” (Gióp 1:8), trọn vẹn và ngay thẳng đến nỗi không ai trên trái đất vào thời điểm đó có thể bằng được ông. Một lần nữa, đây là nguyên văn những lời của chính Đức Chúa Trời nói về Gióp.

Ngay cả sau khi Gióp phải đối mặt với tai họa này đến tai họa khác, Đức Chúa Trời vẫn lặp lại những gì Ngài đã nói trước tiên về Gióp, rằng không có ai khác trên trái đất giống như ông, trọn vẹn và ngay thẳng, v.v., ngoại trừ việc sau đó có thêm một yếu tố mới đã được thêm vào. Gióp vẫn là tất cả những điều này, “mặc dầu ngươi có giục ta phá hủy người vô cớ” (Gióp 2:3).

Mặc dù chúng ta có cái nhìn rõ ràng về sự trọn vẹn và ngay thẳng của Gióp trong cách ông không chịu từ bỏ Đức Chúa Trời bất chấp tất cả những gì đã xảy ra và bất chấp sự chế nhạo đáng tiếc của vợ, “Ông hãy còn bền đỗ trong sự hoàn toàn mình sao?… Hãy phỉ báng Đức Chúa Trời, và chết đi!” (Gióp 2:9), sách Gióp tiết lộ một khía cạnh khác trong cuộc đời của Gióp trước khi toàn câu chuyện của ông được kể lại.

Đọc Gióp 29:12–16. Điều gì được mô tả ở đây giúp chúng ta hiểu sâu hơn về bí mật của cá tính con người của Gióp?

Có lẽ điều sâu sắc nhất ở đây là lời của Gióp, “Tôi đã làm cha cho kẻ nghèo khó, còn duyên cớ của kẻ lạ, tôi tra xét cho rõ ràng” (Gióp 29:16). Nói cách khác, chẳng hạn, Gióp không chỉ đợi cho có người ăn xin áo quần rách rưới đến để nhờ vả, nhưng ông đã chủ động đi tìm những kẻ thiếu thốn có nhu cầu để giúp đỡ họ.

Bà Ellen G. White bình luận, “Đừng đợi họ [người nghèo] kêu cầu sự quan tâm của bạn đến nhu cầu của họ. Hãy hành động như Gióp đã làm. Điều mà ông không biết thì ông tìm hiểu. Hãy đi một chuyến thị sát và tìm hiểu những nhu cầu nào ngoài kia và tìm phương cách để các nhu cầu ấy có thể được đáp ứng cách hữu hiệu nhất.”—Testimonies for the Church, quyển 5, trang 151. Đây là cấp độ quản lý tiền bạc và các nguồn năng lực của Đức Chúa Trời mà nhiều con cái Đức Chúa Trời chưa đạt đến trong cuộc sống của họ ngày nay.

Ê-sai 58:6–8. Làm thế nào chúng ta có thể lấy những lời cổ xưa này và áp dụng chúng cho mình ngày nay?

“‘Khi Con người ngự trong sự vinh hiển mình mà đến với các thiên sứ thánh, thì Ngài sẽ ngồi trên ngôi vinh hiển của Ngài. Muôn dân nhóm lại trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ chia người nầy với người khác ra.’ Do đó, tại núi Ô-li-ve Đấng Christ đã miêu tả cho các môn đồ cảnh tượng của ngày phán xét trọng đại. Và Ngài cho mọi người biết sự quyết định dựa vào một điểm. Khi muôn dân nhóm lại trước mặt Ngài, sẽ chỉ có hai hạng người, và số phận đời đời của họ sẽ được quyết định bởi những gì họ đã làm hoặc đã bỏ qua việc giúp đỡ cho những người nghèo khổ và đau thương.”—Ellen G. White, The Desire of Ages, trang 637.

“Khi bạn tiếp rước những người nghèo khổ và khốn khó của Đấng Christ, là lúc bạn đang tiếp đón những thiên sứ vô hình. Và kêu gọi bạn đồng hành với các sứ thánh ở trên trời. Họ sẽ đem đến sự vui mừng và bình an đầy thiêng liêng. Họ đến với những lời tán dương ở trên môi, và lời cầu khẩn của chúng ta sẽ được thiên đàng nghe thấy. Mọi công việc nhân từ sẽ trở thành những giai điệu âm nhạc trên thiên đàng. Cha thiêng thượng từ ngôi của Ngài sẽ nhóm những tôi tớ trung tín và ban cho họ những châu báu quý giá nhất của Ngài.”—The Desire of Ages, trang 639.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN:

  1. “Vì sẽ có kẻ nghèo trong xứ luôn luôn” (Phục truyền 15:11). Ngoài sự thật rằng lời tiên tri này, dù đã trải qua hàng nghìn năm, nhưng tiếc thay nó vẫn được ứng nghiệm, thì ngày nay chúng ta phải hiểu nó như thế nào? Một số người lại đã dùng những lời này để biện minh cho việc không giúp đỡ người nghèo, lập luận theo cách này, “Thì Chúa đã chẳng nói rằng lúc nào cũng sẽ có người nghèo, bởi vậy chuyện có người nghèo là chuyện đương nhiên rồi.” Sai lầm của sự suy nghĩ ấy là gì?
  2. Đọc 1 Ti-mô-thê 6:17–19: “Hãy răn bảo kẻ giàu ở thế gian nầy đừng kiêu ngạo và đừng để lòng trông cậy nơi của cải không chắc chắn, nhưng hãy để lòng trông cậy nơi Đức Chúa Trời, là Đấng mỗi ngày ban mọi vật dư dật cho chúng ta được hưởng. Hãy răn bảo họ làm điều lành, làm nhiều việc phước đức, kíp ban phát và phân chia của mình có, vậy thì dồn chứa về ngày sau một cái nền tốt và bền vững cho mình, để được cầm lấy sự sống thật.” Hãy lưu ý điều nguy hiểm là: tin cậy vào sự giàu có của mình chứ không vào Đức Chúa Trời hằng sống. Tại sao rất dễ cho những kẻ có tiền làm điều đó, dầu họ biết rằng cuối cùng thì dù có dùng mọi tiền của ấy cũng không giúp họ có sự sống được? Tại sao tất cả chúng ta phải cẩn thận về việc không tin cậy vào bất cứ điều gì khác ngoài Đức Chúa Trời hằng sống?
Bài Học 6, 4 — 10 Tháng 2, 2023

Chứa Của Cải Nơi Thiên Quốc

CÂU GỐC: “Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? Hay là có người nào lấy chi mà đổi linh hồn mình ư?” (Mác 8:36, 37).

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Sáng thế Ký 6:5–14, Hê-bơ-rơ 11:8–13, 2 Cô-rinh-tô 4:18, Sáng thế Ký 13:10–12, Sáng thế Ký 32:22–31, Hê-bơ-rơ 11:24–29.

Đức Chúa Giê-su đã ban cho chúng ta phương thức đầu tư tốt nhất trên thế giới khi Ngài tuyên bố: “Các ngươi chớ chứa của cải ở dưới đất, là nơi có sâu mối, ten rét làm hư, và kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy; nhưng phải chứa của cải ở trên trời, là nơi chẳng có sâu mối, ten rét làm hư, cũng chẳng có kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy” (Ma-thi-ơ 6:19, 20). Và Chúa kết thúc chiến lược đầu tư của Ngài bằng câu này: “Vì chưng của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó” (Ma-thi-ơ 6:21). Nói cách khác: hãy cho tôi biết bạn tiêu tiền vào việc gì, và tôi sẽ cho bạn biết lòng của bạn ở đâu, bởi vì bạn đặt tiền vào đâu, lòng của bạn chắc chắn sẽ đi theo, nếu nó chưa ở đó.

Bạn có muốn một tấm lòng cho vương quốc của Đức Chúa Trời không? Nếu vậy, hãy để tiền của bạn vào nơi nó sẽ gặt hái được những phần thưởng vĩnh cửu. Hãy dành thời gian, tiền bạc và lời cầu nguyện của bạn vào công việc của Đức Chúa Trời. Nếu bạn làm như vậy, bạn sẽ sớm hứng thú hơn với công việc đó, và tấm lòng của bạn cũng sẽ theo đó nữa. Tuần này, chúng ta sẽ xem xét các văn bản và câu chuyện minh họa cho chúng ta thấy cách cất giữ kho báu trên trời và cuối cùng, gặt hái được phần thưởng vĩnh cửu.

Dường như là những người đang tìm kiếm kho báu của thiên đàng thường được Đức Chúa Trời kêu gọi để thực hiện những thay đổi lớn trong cuộc sống của họ ở đây trên trái đất. Bạn hãy chuẩn bị để đối mặt với điều tương tự, nếu cần.

Đọc Sáng thế Ký 6:5–14. Những thay đổi lớn nào đến với Nô-ê do việc ông vâng lời Đức Chúa Trời? Chúng ta có thể tìm thấy những nguyên tắc nào ở đây cho chính mình trong một thế giới cần được cảnh báo về sự diệt vong sắp xảy ra?

Nô-ê có thể đã dành thời gian và năng lực của mình để xây dựng một ngôi nhà cho riêng mình, nhưng ông đã chọn thực hiện một thay đổi vĩ đại trong cuộc đời mình và dành 120 năm cuộc đời đó để đi theo tiếng gọi của Đức Chúa Trời đặng xây dựng chiếc tàu.

Nhiều người có tính hoài nghi ngày nay bác bỏ câu chuyện về Nước Lụt như đó là một huyền thoại, họ thường dựa trên những suy đoán khoa học về các quy luật tự nhiên hiện hữu. Điều này không có gì mới. “Thế giới trước trận Đại hồng thủy lý luận rằng trong nhiều thế kỷ, các quy luật tự nhiên đã được cố định. Các mùa định kỳ đã đến theo thứ tự của chúng. Từ trước đến nay chưa có mưa bao giờ; trái đất đã được tưới bởi hơi nước hoặc sương móc. Các con sông chưa bao giờ vượt qua ranh giới của chúng, nhưng đã đưa nước của chúng xuôi dòng ra biển một cách an toàn. Các sắc lệnh cố định đã giữ cho nước không tràn bờ.”—Ellen G. White, Patriarchs and Prophets, trang 96. Trước khi có Nước Lụt, loài người lập luận rằng một trận lụt không bao giờ có thể đến, họ dựa trên sự hiểu biết sai lầm về thực tại; sau Nước Lụt, loài người cũng lại dựa trên sự hiểu biết sai lầm về thực tại, họ lập luận rằng Nước Lụt thật sự chẳng hề xảy ra. Như Kinh Thánh nói: “Không có gì mới dưới mặt trời” (Truyền đạo 1:9).

Trong khi đó, Kinh Thánh cũng nói rằng mọi người sẽ hoài nghi về các sự kiện trong thời kỳ cuối cùng, giống như họ đã hoài nghi trước khi Nước Lụt đến (xin xem 2 Phi-e-rơ 3:3–7). Vậy làm thế nào chúng ta có thể chuẩn bị cho sự hủy diệt sắp tới? Có một quyết định có ý thức được gọi là “niềm thỏa lòng sẽ đến nhưng phải trì hoãn”. Trên căn bản, điều này có nghĩa là chúng ta nên kiên nhẫn làm công việc mà Đức Chúa Trời đã kêu gọi chúng ta làm với niềm hy vọng cho một phần thưởng vinh quang hơn trong tương lai. Chúng ta không biết khi nào Đức Chúa Giê-su Christ sẽ trở lại. Nói cho đúng, lúc nào Ngài trở lại là không quan trọng. Mà điều quan trọng hơn ấy là, như Nô-ê, chúng ta làm những gì Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta trong thời gian chờ đợi, ngay cả khi, như với Nô-ê, việc ấy có nghĩa là chúng ta có thể phải thay đổi cuộc đời mình hoàn toàn.

Bạn sẽ sẵn sàng đến mức nào để thực hiện một thay đổi lớn trong cuộc đời mình cho Đức Chúa Trời, giống như Nô-ê, nếu bạn được kêu gọi để làm điều đó? (Gợi ý: Xin xem Lu-ca 16:10.)

Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ram rời quê hương và dân tộc của mình để đến một vùng đất mà Ngài sẽ chỉ cho ông. Như thế, đó là bắt đầu dòng dõi của Đấng Mê-si. Mặc dù không nhiều chi tiết được đưa ra, nhưng Áp-ram đã phải rời bỏ mảnh đất nơi sinh ra mình và những năm đầu đời. Chắc chắn, đó không phải là một quyết định dễ dàng, và chắc chắn ông đã phải từ bỏ một số thú vui và tiện nghi trần thế để làm điều đó.

Đọc Sáng thế Ký 12:1–3. Làm thế nào “các chi tộc nơi thế gian sẽ . . . được phước” là kết quả của lời hứa này và việc Áp-ram chấp nhận nó?

Đây là một sự kiện lớn thay đổi cuộc đời của Áp-ram và gia đình ông. “Bởi đức tin, Áp-ra-ham vâng lời Chúa gọi, đi đến xứ mình sẽ nhận làm cơ nghiệp: người đi mà không biết mình đi đâu.” (Hê-bơ-rơ 11:8) “Sự vâng lời không nghi ngờ của Áp-ra-ham là một trong những bằng chứng nổi bật nhất về đức tin được tìm thấy trong tất cả Kinh Thánh.”—Ellen G. White, Patriarchs and Prophets, trang 126.

Phần đông chúng ta không ai háo hức rời bỏ quê hương mình, xa cách bạn bè và những người thân yêu. Nhưng Áp-ram đã làm điều ấy. Áp-ram sẵn lòng được ở nơi Đức Chúa Trời muốn ông ở. Nhưng một điều có vẻ lạ lùng, ấy là, Áp-ram, Y-sác và Gia-cốp chưa bao giờ nhận được mảnh đất đó trong cuộc đời của họ — nhưng họ vẫn trung thành với Đức Chúa Trời.

Đọc Hê-bơ-rơ 11:8–13. Sứ điệp có ý nghĩa với chúng ta ở đây là gì?

Áp-ram được những người sống xung quanh xem như là một vị công tước hay hoàng tử. Ông được biết đến là một người hào hiệp, dũng cảm, hiếu khách và là một bầy tôi của Đức Chúa Trời Tối Cao. Sự làm chứng của ông cho Đức Chúa Trời là một gương mẫu. Nhờ ân điển của Đức Chúa Trời, chúng ta là những người thừa kế với Áp-ra-ham. “Như Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời, thì đã kể là công bình cho người, vậy anh em hãy nhận biết rằng những kẻ có đức tin là con cháu thật của Áp-ra-ham” (Ga-la-ti 3:6, 7). “Lại nếu anh em thuộc về Đấng Christ, thì anh em là dòng dõi của Áp-ra-ham, tức là kẻ kế tự theo lời hứa” (Ga-la-ti 3:29).

Với Áp-ra-ham, cũng như với Nô-ê, chúng ta thấy họ là những con người, do sự vâng lời Đức Chúa Trời, đã làm một quyết định quan trọng thay đổi cuộc đời mình.

Đọc 2 Cô-rinh-tô 4:18. Thông điệp trong câu này có tác động thế nào đến các quyết định thuộc linh mà chúng ta làm? Cả Môi-se và Áp-ra-ham đều tuân theo cùng một nguyên tắc đó như thế nào?

Khi Áp-ram rời quê hương để đáp lại lời kêu gọi của Đức Chúa Trời, Lót, người cháu trai của ông đã chọn đi cùng ông trong cuộc hành trình này. Sáng thế Ký 13 ghi lại rằng Đức Chúa Trời ban phước cho Áp-ram đến mức ông “Áp-ram rất giàu có súc vật [theo cách đo lường sự giàu có trong nền văn hóa thời ấy], vàng và bạc” (Sáng thế Ký 13:2). Lót “cũng có chiên, bò, và trại” (Sáng thế Ký 13:5). Cả hai đều trở nên giàu có với đàn súc vật lớn đến mức họ không thể sống gần nhau. Để tránh xung đột giữa những người chăn bầy của họ, Áp-ram đề nghị Lót được chọn trước nơi nào người muốn định cư. Lẽ ra, Lót phải để cho Chú mình là Áp-ram chọn trước vì là bậc trưởng thượng của mình, và cũng vì chính nhờ ông mà Lót có được sự thịnh vượng ngày nay. Tuy nhiên, Lót đã không tỏ ra sự biết ơn với ân nhân mình và ích kỷ muốn chọn trước, một phần đất mà người đã xem là vùng đất tốt nhất hiện thời.

Đọc Sáng thế ký 13:10–12. Những yếu tố hợp lý nào có thể khiến Lót đưa ra quyết định mà ông đã làm?

Cho dầu Lót có thể dễ dàng biện minh cho quyết định của mình để dời đến thành phố lớn, mọi việc không diễn ra tốt đẹp cho người tại đó, và khi Áp-ram nghe về những gì đã xảy ra với Lót, ông không nói: “Chà, ai biểu. Cháu gặt những gì mình gieo.” Thay vào đó, ông đã đến để giải cứu cháu mình (xem Sáng thế Ký 14).

Đôi khi trong cuộc tìm kiếm gom góp cho càng có nhiều càng tốt, chúng ta không học được bài học của mình. Sau mọi sự, Lót lại dọn ngay về lại thành Sô-đôm! Nhưng trong lòng nhân từ vĩ đại của Ngài, Đức Chúa Trời đã gửi những sứ giả đến cảnh báo Lót và gia đình ông, cho họ biết về sự hủy diệt đang chờ đợi đến với thành phố này.

Đọc Sáng thế Ký 18:20–33. Đức Chúa Trời đã nói gì với Áp-ra-ham lý do Ngài đến viếng thế gian? Phản ứng của Áp-ra-ham trước tin Đức Chúa Trời định phá hủy những thành phố gian ác này là gì?

Vì mối quan tâm của mình đối với Lót và gia đình người, Áp-ra-ham đã mặc cả với Đức Chúa Trời để tha các thành ấy nếu tìm được người công bình trong đó. Ông bắt đầu với con số 50 và giảm xuống còn 10. Phù hợp với bản tính yêu thương của Ngài, Đức Chúa Trời không ngừng ban lòng thương xót cho đến khi Áp-ra-ham ngừng cầu xin! Đích thân Đức Chúa Trời và hai thiên sứ giải cứu Lót, vợ người và hai con gái. Nhưng vợ Lót quay nhìn lại thì bị biến thành tượng muối. Lót đến Sô-đôm là một người giàu có mà khi ra đi khỏi thành ấy thì hầu như trắng tay. Chúng ta cần phải cẩn thận như thế nào đối với những loại quyết định mà chúng ta chọn, nhất là nếu chỉ nghĩ đến lợi ích ngắn hạn thay vì nhìn vào toàn diện bức tranh lớn (xin xem Mác 8:36, 37).

Tuy là một thanh niên yêu mến và kính sợ Đức Chúa Trời, Gia-cốp lại đã âm mưu với mẹ mình, Rê-bê-ca, để đánh lừa cha mình và giành lấy phước lành của ông ban bố. Kết quả là, chàng ta bắt đầu cuộc đời thành nhơn của mình trên con đường sai lầm, phải chạy trốn hoặc có lẽ phải đối mặt với cái chết sớm. Rê-bê-ca bảo Gia-cốp, “bây giờ, hỡi con, hãy nghe lời mẹ, đứng dậy, chạy trốn qua nhà La-ban, cậu con, tại Cha-ran, và hãy ở cùng người ít lâu, cho đến lúc nào cơn giận của anh con qua hết. Khi cơn giận anh con bỏ qua rồi, và nó quên việc con đã gây nên với nó, thì mẹ sẽ biểu con về” (Sáng thế Ký 27:43–45). Gia-cốp thực sự đã ra đi đến 20 năm và chàng chẳng bao giờ còn được thấy mặt mẹ mình nữa.

Đọc Sáng thế Ký 32:22–31. Điều gì đã xảy ra với Gia-cốp ở đây và chúng ta có thể rút ra bài học thiêng liêng nào từ câu chuyện này về ân điển của Đức Chúa Trời, ngay cả khi chúng ta có những quyết định sai lầm?

“Qua sự sỉ nhục, ăn năn và tự đầu hàng, con người phàm đầy tội lỗi và sai lầm này đã sống sót được bởi Đấng Chủ tể của thiên đàng. Bàn tay run rẫy của chàng đã bấu chặt vào những lời hứa của Đức Chúa Trời, và trái tim của Đấng có Tình Yêu Vô Hạn không thể từ chối lời cầu xin của tội nhân này. Lỗi lầm đã dẫn đến tội lỗi của Gia-cốp trong việc giành quyền trưởng nam bằng cách gian lận giờ đây đã được đặt ra trước mặt chàng một cách rõ ràng. Chàng đã không tin tưởng vào những lời hứa của Đức Chúa Trời, nhưng đã tự dùng chính nỗ lực của mình để cố gắng mang lại điều mà Đức Chúa Trời sẽ thực hiện theo thời khóa biểu và cách thức của riêng Ngài. . . Gia-cốp đã nhận được phước lành mà linh hồn chàng hằng mong ước. Tội lỗi của chàng khi tranh phần không phải của mình và là kẻ lừa dối nay đã được tha thứ.”—Ellen G. White, Patriarchs and Prophets, trang 197, 198.

Đọc Sáng thế Ký 49:29–33. Mặc dù Gia-cốp không còn phần gì ở xứ Ca-na-an, nhưng ông đã chỉ dẫn gì cho các con trai về việc chôn cất mình? Những ai cũng được chôn cất trong hang mộ ấy? Bạn nghĩ tại sao Gia-cốp lại đưa ra yêu cầu này?

Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng cả ba tộc trưởng và vợ của họ đều được chôn cất trong cùng một hang mộ. Sự tin cậy của Gia-cốp nơi Đức Chúa Trời rất mạnh mẽ, và ông coi mình là một người khách lạ và khách lữ hành trên đất (xin xem Hê-bơ-rơ 11:13). Dầu nhiều lầm lỗi, ông đã bỏ nhà ra đi không mang theo gì nhưng khi trở về quê quán, lại là một con người giàu có của xứ Ca-na-an.

Bất chấp mọi lầm lỗi của chúng ta, Đức Chúa Trời vẫn có thể ban phước cho chúng ta. Tuy nhiên, tốt hơn biết bao nếu chúng ta tránh được các lầm lỗi ngay từ đầu! Bạn đang phải đối mặt với những lựa chọn nào, và làm thế nào để bạn có thể tránh mắc phải những lựa chọn sai lầm?

Bản tính của con người Môi-se đã đóng vai trò quan trọng trong những năm đầu của lịch sử thiêng liêng. Ông được sống còn bởi sự quan phòng của Đức Chúa Trời, Đấng đã làm việc qua một người mẹ dũng cảm và một người chị chăm nom ông. Khi con gái của Pha-ra-ôn tìm thấy em bé Môi-se trong chiếc thúng bằng sậy, bà đã thuê người mẹ Hê-bơ-rơ của em chăm sóc cho em. Quả là một thử thách may mắn cho một người mẹ trẻ bị đày ải và nô lệ! Giô-cơ-bét chỉ có 12 năm để dạy con mình cầu nguyện, tin cậy và tôn kính Chúa, cũng như uốn nắn tính cách của nó để có một cuộc sống biết phục vụ Chúa. Trong nhiều năm, Môi-se lại được đào tạo trong các sân chầu của hoàng gia xứ Ai Cập. “Môi-se được học cả sự khôn ngoan của người Ê-díp-tô; lời nói và việc làm đều có tài năng” (Công vụ 7:22). Khi trưởng thành và thành nhân, Môi-se đã có một quyết định có ý thức làm thay đổi cuộc đời mình và tiến trình lịch sử.

Đọc Hê-bơ-rơ 11:24–29. Hãy nghĩ về những gì Môi-se đã bỏ lại sau lưng và những gì ông sẽ phải đối diện trong tương lai. Hãy thử nhìn từ vị trí của Môi-se lúc ấy, trước khi ông đi đến quyết định và lựa chọn. Môi-se sẽ phải từ bỏ những gì, và sẽ phải chấp nhận gì khi chọn sự ra đi?

Ê-díp-tô (Ai Cập) là một trong những cường quốc lớn nhất trong thế giới cổ đại vào thời điểm đó, nếu không muốn nói là vĩ đại nhất. Sông Nile đã tạo ra một vùng đất màu mỡ đến nỗi Ai Cập, với mùa màng tươi tốt, là một quốc gia giàu có và hùng mạnh, và chính Môi-se lẽ ra đã đứng đầu vương quốc này. Thật khó để có thể hình dung được sự cám dỗ đầy mê hoặc của thế gian này, vương quốc Ai Cập với đủ mọi thứ châu báu, vốn thuộc quyền sỡ hữu của Môi-se trong những năm đầu đời của mình. Chắc chắn ông cảm thấy bị cám dỗ bởi sự yêu thích, các thú vui và sự giàu sang. Dĩ nhiên, ông có thể dễ dàng biện minh cho việc ở lại thay vì rơi vào hoàn cảnh như những người nô lệ bị khinh thường.

Vậy mà, điều gì đã xảy ra? Như Kinh Thánh cho biết, ông đã “đành cùng dân Đức Chúa Trời chịu hà hiếp hơn là tạm hưởng sự vui sướng của tội lỗi” (Hê-bơ-rơ 11:25). Và nói về phiền não? Một phần chính của sách Xuất Ê-díp-tô Ký đề cập đến những phấn đấu và thử thách của Môi-se, người mà sau tất cả những gì ông đã trải qua, vẫn không thể bước vào Đất Hứa (xem Dân số Ký 20:12). Tuy nhiên, cuối cùng, tất cả chúng ta đều biết rằng Môi-se đã lựa chọn đúng, ngay cả khi có lúc ông phải tự hỏi liệu mình có thực sự đã quyết định đúng hay không.

Theo quan điểm thế gian, lẽ ra Môi-se nên ở lại Ai Cập. Tuy nhiên, là Cơ Đốc nhân, chúng ta đã được cho một cái nhìn về thực tế đưa chúng ta ra cao hơn thế giới này. Khi chúng ta bị cám dỗ bởi thế gian, làm thế nào chúng ta có thể giữ cho bức tranh rộng lớn luôn ở trước mắt? Tại sao rất quan trọng là chúng ta phải làm vậy?

Đức Chúa Trời đã tôn trọng phần giao ước của Ngài bằng cách ban phước cho Áp-ra-ham. Và Áp-ra-ham tôn trọng Đức Chúa Trời bằng cách không cất giữ kho báu trên trái đất này. “Ngài chẳng ban cho người sản nghiệp gì trong xứ nầy, dầu một thẻo đất lọt bàn chân cũng không” (Công vụ 7:5). Ông sở hữu điều tuyệt vời hơn hết, và ông đã sử dụng nó cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời và cho sự tốt lành của đồng loại mình; nhưng ông chẳng coi thế gian này là nhà của mình. Chúa đã kêu gọi ông rời bỏ những người đồng hương thờ hình tượng của mình, với lời hứa về xứ Ca-na-an là sở hữu đời đời; vậy mà cả ông và con trai ông cũng như con của con trai ông đều không nhận được nó. Khi Áp-ra-ham muốn có một nơi chôn cất người thân qua đời của mình, ông phải mua nó của người Ca-na-an. Sở hữu duy nhất của ông ở Vùng Đất Hứa là ngôi mộ đẽo bằng đá trong hang động Ma-bê-la.”—Ellen G. White, Patriarchs and Prophets, trang 169.

Trong cuộc sống của chúng ta, đôi khi chúng ta bị cám dỗ để hướng tới sự giàu có và nhàn hạ. Cần có đức tin mạnh mẽ để thực hành việc trì hoãn lòng thỏa mãn. “Cung điện tráng lệ của Pha-ra-ôn và ngai vàng của vương quốc được đặt trước mặt Môi-se như một sự dụ hoặc; nhưng ông biết rằng những thú vui tội lỗi trong các sân của cung điện vua chúa đang khiến loài người quên mất Đức Chúa Trời. Ông nhìn xa hơn cung điện lộng lẫy, xa hơn vương miện của một vị vua, để thấy những danh hiệu cao quý sẽ được ban cho các thánh của Đấng Tối Cao trong một vương quốc không bị ô nhiễm bởi tội lỗi. Ông tin tưởng đã nhìn thấy một chiếc vương miện vô song mà Vua thiên đàng sẽ đặt trên trán của con người vượt qua các cám dỗ ấy. Đức tin này đã khiến ông quay lưng lại với các vua chúa của thế gian và gia nhập dân tộc hèn mọn, nghèo nàn, bị khinh miệt đã chọn để vâng lời Đức Chúa Trời hơn là phục vụ tội lỗi.”—Patriarchs and Prophets, trang 246.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN:

  1. Điều gì sẽ xảy ra với tài sản của chúng ta khi Đức Chúa Giê-su đến? (Xin xem 2 Phi-e-rơ 3:10.) Thực tế, điều gì có thể xảy ra cho chúng ngay cả trước khi Đức Chúa Giê-su đến? (Xin xem Ma-thi-ơ 6:20.) Vậy tại sao, giữ mọi thứ theo quan điểm thích hợp của chúng là điều rất quan trọng?
  2. Đức Chúa Giê-su cảnh báo về “sự mê đắm về giàu sang” (Mác 4:19). Ngài đang nói gì vậy? Làm sao sự giàu sang có thể lừa dối chúng ta?
  3. Trong lớp, hãy nói về những cách mà Môi-se có thể biện minh cho việc ở lại Ai Cập thay vì bỏ lại mọi thứ để cùng một đám nô lệ chạy trốn đến một sa mạc cằn cỗi? Rốt cuộc điều gì đã khiến Môi-se có quyết định như ông đã làm?
Bài Học 5, 28 Tháng 1 — 3 Tháng 2, 2023

Ứng Xử Với Nợ Nần

CÂU GỐC: “Người giàu quản hạt kẻ nghèo; Kẻ nào mượn là tôi tớ của kẻ cho mượn” (Châm ngôn 22:7).

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Phục truyền 28:1, 2, 12; Ma-thi-ơ 6:24; 1 Giăng 2:15; Châm ngôn 22:7; Châm ngôn 6:1–5; Phục truyền 15:1–5.

Một định nghĩa về nợ nần là: “sống ngày hôm nay bằng những gì bạn kỳ vọng sẽ kiếm được trong tương lai.” Ngày nay, nợ nần dường như là một cách sống đương nhiên, nhưng nó không phải là chuẩn mực cho Cơ Đốc nhân. Kinh Thánh không khuyến khích mắc nợ. Trong Kinh Thánh có ít nhất 26 lần đề cập đến nợ nần, và tất cả đều là tiêu cực. Nó không nói rằng khi mang nợ hay vay tiền là một cái tội, nhưng nó nói về những hậu quả tồi tệ của việc mắc nợ. Khi luận về các nghĩa vụ tài chính, Phao-lô khuyên: “Phải trả cho mọi người điều mình đã mắc: nộp thuế cho kẻ mình phải nộp thuế; đóng góp cho kẻ mình phải đóng góp; sợ kẻ mình đáng sợ; kính kẻ mình đáng kính. Đừng mắc nợ ai chi hết, chỉ mắc nợ về sự yêu thương nhau mà thôi” (Rô-ma 13: 7, 8).

Tại sao nợ nần gần như là một vấn nạn phổ biến trên toàn cầu ở mọi mức độ—từ cá nhân, cho đến doanh nghiệp và chính phủ? Mọi xã hội luôn có ít nhất một tỷ lệ nhỏ mắc nợ. Nhưng ngày nay, rất nhiều người đang mắc nợ, và điều ấy hầu như không bao giờ có lợi cho họ..

Tuần này chúng ta sẽ xem xét lý do đưa đến nợ nần và cách giải quyết chúng. Bạn có thể không mắc nợ, nhưng bạn có thể chia sẻ bài học quý giá này với gia đình và bạn bè, những người có thể có được lợi ích qua nó.

Đọc Phục truyền Luật lệ Ký 28:1, 2, 12. Điều lý tưởng nào Đức Chúa Trời muốn con cái Ngài phải có về nợ nần? Làm thế nào họ có thể đạt được lý tưởng này? Tuy bối cảnh thời họ rất khác với bối cảnh của chúng ta thời nay, nhưng chúng ta vẫn có thể rút ra được các nguyên tắc nào và áp dụng cho chính mình ngày nay?

Các nghiên cứu chỉ ra rằng có ba lý do chính khiến người ta gặp khó khăn về tài chính. Chúng được liệt kê ở đây theo thứ tự của lý do thường xảy ra nhất.

Thứ nhất là do thiếu hiểu biết. Nhiều người, ngay cả những người có học, không biết gì về tài chính. Họ chỉ đơn giản là không bao giờ trực tiếp đối phó với việc quản lý tiền bạc theo các nguyên tắc của Kinh Thánh hay thậm chí của trần thế. Tuy nhiên, họ cũng còn có hy vọng! Bài học này sẽ cung cấp một dàn bài đơn giản về các nguyên tắc này và cách áp dụng chúng.

Lý do thứ hai dẫn đến khó khăn về tài chính là lòng tham, hay tính ích kỷ. Họ bị lôi cuốn trước những quảng cáo và thèm muốn cá nhân, kết cuộc là người ta sống vượt quá khả năng của họ. Họ không thỏa mãn với nơi sinh sống, phương tiện đi lại hay là đồ mặc trong khả năng tài chính của mình. Nhiều người trong số những người này cũng cảm thấy rằng họ quá nghèo để hoàn trả phần mười. Do đó, họ sống cuộc sống của mình mà không có sự khôn ngoan và phước lành đã hứa của Đức Chúa Trời (xin xem Ma-la-chi 3:10, 11; Ma-thi-ơ 6:33). Những người này cũng có hy vọng, nhưng điều đó đòi hỏi sự thay đổi tấm lòng—và một tinh thần cảm thấy niềm mãn nguyện.

Lý do thứ ba khiến người gặp khó khăn về tài chính là do bất hạnh cá nhân. Họ có thể đã trải qua một căn bệnh hiểm nghèo mà không có bảo hiểm y tế đầy đủ. Họ có thể đã bị bỏ rơi bởi một người phối ngẫu tiêu xài hoang phí. Một tai họa thiên nhiên có thể đã quét sạch tài sản của họ. Hoặc họ có thể đã sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nghèo túng. Cũng có hy vọng cho những người này. Con đường của họ tuy có khó khăn hơn nhưng những rắc rối của họ đều có thể vượt qua. Sự thay đổi có thể đến qua sự hỗ trợ của những bạn hữu Cơ Đốc nhân; từ các lời khuyên, chỉ bảo đi kèm sự trợ giúp của các nhà cố vấn thành tín; cùng với sự cần mẫn trong việc làm, đi đôi với một nền giáo dục tốt; nhờ ơn phước và quan phòng của Đức Chúa Trời.

Dù lý do là gì, ngay cả khi đó là lỗi của cá nhân, nợ nần có thể được giảm bớt. Tuy nhiên, những người mắc nợ sẽ cần thực hiện một số thay đổi trong cách sống, cách chi tiêu và các ưu tiên tài chính của họ.

Đọc 1 Ti-mô-thê 6:6–9. Phao-lô đang nói gì ở đây mà tất cả chúng ta cần lưu ý? Những lời này có ý nghĩa gì đối với bạn, và bằng những cách nào bạn có thể làm theo những gì Lời Chúa đang dạy chúng ta ở đây?

Chúng ta là con người xác thịt, và sống trong một thế giới vật chất, một thế giới có nhiều sự cám dỗ. Trừ khi chúng ta được dựng nên từ sắt và dầu nhân tạo thay vì thịt và huyết, mới có thể không bị cám dỗ trước những của cải vật chất và sự giàu có. Cũng có những khi, mấy ai lại chẳng mơ về việc giàu có hoặc trúng số?

Dầu tất cả chúng ta đều phải đối mặt với điều đó, và không có gì sai khi làm việc cần cù để có được một cuộc sống tốt hoặc thậm chí trở nên giàu có, nhưng không ai trong chúng ta lại muốn mình bị mắc mưu ma quỷ và để cho tiền bạc, sự giàu có và những của cải vật chất trở thành thần tượng của mình. Chúng ta được hứa ban sức mạnh thiêng liêng để luôn trung thành với những gì mà mình biết là đúng. Điều này rất quan trọng, bởi vì sự cám dỗ về sự giàu có và của cải đời này dẫn đến sự hư mất của nhiều linh hồn.

Đọc Ma-thi-ơ 6:24 và 1 Giăng 2:15. Mặc dù được thể hiện khác nhau, chủ đề chung được tìm thấy ở cả hai câu này là gì?

Thật đáng tiếc, lòng yêu mến thế gian có thể mạnh mẽ đến mức người ta sẽ để mình mắc phải nợ nần hầu—như họ hy vọng—thỏa mãn lòng yêu mê ấy. (Sự thật là nó chẳng bao giờ thành tựu; xin xem Truyền đạo 4:8). Và bởi vì nợ nần là một trong những tấm lưới của Sa-tan mà hắn giăng ra cho mọi linh hồn, nên thật có lý khi Đức Chúa Trời muốn thấy con cái của Ngài không mắc nợ. Ngài đã cho chúng ta lời khuyên dạy qua Kinh Thánh và qua ân tứ tiên tri để dẫn chúng ta đến sự tự do về tài chính.

Đọc Thi thiên 50:14, 15. Dân sự của Đức Chúa Trời nên sống với thái độ nào? “Trả sự hứa nguyện” nghĩa là gì?

Chúng ta trở thành thuộc viên hội thánh của mình với sự ngợi khen và cảm tạ đối với Đức Chúa Trời của chúng ta, Đấng đã tạo dựng và cứu chuộc chúng ta. Ở điều 9 (trong số 13 điều) của lời thề báp-têm, chúng ta được hỏi, “Bạn có tin vào tổ chức của giáo hội không? Có phải mục đích của bạn là thờ phượng Đức Chúa Trời và ủng hộ hội thánh qua phần mười và các của dâng, cũng như bằng nỗ lực và ảnh hưởng của cá nhân bạn không?” Là tín hữu Cơ đốc Phục lâm, tất cả chúng ta đều trả lời “có”. Vì vậy, bản văn này (Thi thiên 50:14, 15) là một lời hứa cho những ai dâng lời tạ ơn lên Đức Chúa Trời và trung thành trả xong các lời hứa nguyện của họ.

Những chọn lựa của bạn cho bạn biết điều gì về cách bạn có đối phó tốt với sự thu hút của thế gian? Tại sao làm việc chuyên cần để kiếm một cuộc sống tốt không nhất thiết phải giống như để sự giàu có hay tiền tài làm thần tượng của mình? Làm thế nào chúng ta có thể học biết sự khác biệt?

Đọc Châm ngôn 22:7. Theo nghĩa nào thì chúng ta đang bị ràng buộc với người cho vay?

Có thể làm gì để thoát khỏi tình trạng đáng tiếc này? Nếu bạn đang mắc nợ, phác thảo sau đây sẽ giúp bạn bắt đầu tiến trình xóa nợ. Kế hoạch rất đơn giản. Nó có một tiền đề và ba bước.

Tiền đề là sự cam kết với Đức Chúa Trời để trung thành trả lại phần mười thánh của Ngài để đến được với sự khôn ngoan và ơn phước của Ngài. Ngài trông đợi để ban phước cho những ai vâng lời Ngài.

Bước một là tuyên bố tạm ngưng mượn thêm nợ: không chi tiêu bằng thẻ tín dụng nữa. Nếu bạn không vay tiền, bạn không thể mắc nợ. Nếu bạn không vay thêm tiền nữa, bạn sẽ không thể mắc nợ thêm.

Bước hai là lập giao ước với Đức Chúa Trời rằng kể từ thời điểm này, khi Ngài ban phước, bạn sẽ trả hết nợ càng nhanh càng tốt. Khi Đức Chúa Trời ban phước cho bạn về mặt tài chính, hãy dùng tiền ấy để giảm nợ — không phải để mua nhiều thứ hơn. Bước này có lẽ là quan trọng nhất. Đa số mọi người, khi nhận được khoản tiền bất ngờ, họ chỉ đơn giản là tiêu nó! Đừng; thay vào đó, hãy áp dụng nó vào kế hoạch giảm nợ của bạn.

Bước ba là phần thực hành. Lập danh sách tất cả các khoản nợ của bạn, từ lớn nhất đến nhỏ nhất, theo thứ tự giảm dần. Với hầu hết các gia đình, khoản nợ tiền nhà là ở đầu danh sách, và thẻ tín dụng hoặc nợ cá nhân ở cuối danh sách. Bắt đầu bằng cách thực hiện ít nhất là trả phần đòi hỏi tối thiểu đến hạn cho mỗi khoản nợ của bạn hàng tháng. Tiếp theo, nhân đôi hoặc tăng các khoản thanh toán của bạn theo bất kỳ cách nào bạn có thể làm được đối với khoản nợ ở cuối danh sách. Bạn sẽ rất ngạc nhiên khi bạn có thể loại bỏ khoản nợ nhỏ nhất đó một cách nhanh chóng dường nào. Sau đó, dùng số tiền bạn thường phải trả cho khoản nợ dưới cùng để thêm vào khoản thanh toán căn bản cho khoản nợ tiếp theo trong danh sách từ dưới lên. Khi bạn loại bỏ các khoản nợ nhỏ mà có lãi suất cao, bạn sẽ thấy được một khoản tiền đáng ngạc nhiên để trả cho các khoản nợ cao hơn tiếp theo trong danh sách.

Đức Chúa Trời rõ ràng không muốn chúng ta mắc nợ. Sau khi lập giao ước với Chúa, nhiều gia đình nhận thấy rằng Đức Chúa Trời ban phước cho họ theo những cách bất ngờ, và các nợ nần được giảm nhanh hơn họ dự đoán. Bằng cách làm theo ba bước đơn giản này, nhiều gia đình đã trở nên không mắc nợ. Bạn cũng có thể làm được! Bằng cách đặt Đức Chúa Trời lên hàng đầu, bạn sẽ nhận được sự khôn ngoan và phước lành của Ngài để quản lý những gì Ngài đã giao phó cho bạn.

“Chớ tham tiền; hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính Đức Chúa Trời có phán rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu” (Hê-bơ-rơ 13:5). Làm thế nào việc áp dụng những lời này có thể giúp mọi người tránh mắc nợ?

Kinh Thánh nói rất rõ ràng rằng Đức Chúa Trời không muốn con cái Ngài phải chịu trách nhiệm về việc phải thanh toán nợ nần của người khác. Trong sách Châm ngôn, Chúa đã cảnh báo chúng ta về sự chịu bảo đảm— nghĩa là ký nợ chung hoặc đứng ra bảo đảm cho người khác.

Đọc Châm ngôn 6:1–5, Châm ngôn 17:18 và Châm ngôn 22:26. Thông điệp ở đây là gì?

Đứng ra làm bảo đảm thường xảy ra khi một người có tín dụng kém (hay xấu) muốn tìm vay một khoản nợ từ một tổ chức cho vay tiền và không hội đủ điều kiện để vay món nợ ấy. Nhân viên hãng cho vay sẽ nói với người không đủ tiêu chuẩn rằng nếu người ấy có được một người bạn có uy tín tốt để ký hợp đồng chung, thì ngân hàng sẽ cho vay và giữ người ký chung ấy chịu trách nhiệm trong trường hợp người mượn tiền không trả nổi.

Có khi người cần tìm người ký chung là một thuộc viên trong nhà thờ, nếu họ gặp bạn và yêu cầu bạn giúp ký chung. Câu trả lời của bạn nên là: “Kinh Thánh nói rằng tôi không bao giờ nên làm điều đó.” Chúng ta cần hiểu rằng Kinh Thánh khuyến khích chúng ta giúp đỡ những người đang cần giúp đỡ, nhưng chúng ta không nên chịu trách nhiệm về các khoản nợ của họ.

Các bậc cha mẹ đôi khi được các con trong tuổi vị thành niên yêu cầu ký hợp đồng giúp họ mua chiếc xe hơi đầu tiên của họ. Hoặc các con cái thành niên có thể đến yêu cầu cha mẹ cho vay tiền kinh doanh. Câu trả lời tương tự cũng được áp dụng. Giúp đỡ người khác nếu có nhu cầu thực sự là đúng, nhưng đừng trở thành người bảo đảm cho các khoản nợ của người khác. Các nghiên cứu cho thấy rằng 75% những người đã ký chung giùm, cuối cùng đã thực sự thành người phải thanh toán các khoản nợ!

Đọc Châm ngôn 28:20 và 1 Ti-mô-thê 6:9, 10. Lời cảnh báo ở đây là gì?

Các kế hoạch làm giàu nhanh chóng là một cái bẫy tài chính khác; chúng gần như chắc chắn sẽ dẫn đến sự hủy hoại tài chính cho những ai vướng vào chúng. Khi nó nghe có vẻ quá tốt để trở thành sự thật, thì chắc chắn là như vậy. Nhiều người bị tổn thương về tình cảm và tài chính. Một bi kịch nữa với những kế hoạch quanh co này là, trong nhiều trường hợp, các cá nhân đã phải vay tiền để tham gia vào chúng ngay từ đầu. Nhiều cuộc sống và gia đình đã bị hủy hoại bởi những kế hoạch làm giàu nhanh chóng mà cuối cùng chỉ làm giàu cho những kẻ lừa đảo nào nghĩ ra chúng bằng sự đóng góp của những người rơi vào bẫy của chúng. Khi một người bạn, hoặc thậm chí một người thân yêu, cố gắng kéo bạn vào một trong những kế hoạch này, hãy chạy. Đừng chần chờ. Hãy chạy nhanh nhất để tránh nó.

Đọc Phục truyền 15:1–5. Chúa đòi hỏi dân Ngài điều gì qua các câu này?

Cũng tương tự như các đạo luật về hạn bảy năm (Xuất Ê-díp-tô Ký 21:2; Lê-vi Ký 25:3, 4), luật này không chỉ áp dụng cho người nô lệ hoặc kẻ tôi tớ và đất đai, mà còn cả những người cho vay. Bởi vì những người cho vay không muốn tha bất kỳ khoản nợ nào, nên thời gian dài nhất mà bất kỳ ai có thể mắc nợ là bảy năm. Ngoài ra từ những câu này, chúng ta còn được thấy rằng Chúa quan tâm đến những vấn đề tài chính thuộc loại này, nhất là khi chúng liên quan đến người Y-sơ-ra-ên với nhau. Những câu này cũng cho thấy rằng Chúa đã thừa nhận thực tế của việc có nợ, dầu nợ nần nói chung là tồi tệ thế nào chăng nữa. Ngài cũng nhấn mạnh rằng nên tránh nó được càng nhiều càng tốt.

Ngày nay, trái lại, nhiều nơi trên thế giới người ta có thể cho vay nợ đến 30 và 40 năm để mua nhà. Dường như giá nhà cửa trở nên quá cao ngày nay là do tín dụng có sẵn để cung cấp các khoản vay để mua chúng.

Trong khi đó, nhiều người, phụ huynh và học sinh băn khoăn về việc vay nợ cho nền giáo dục (đại học) của mình. Như một quy luật, lấy bằng đại học sẽ nâng cao khả năng thu nhập của một người trong suốt phần đời còn lại của họ. Một số người có thể phải vay một số tiền để trang trải cho việc học của họ, nhưng hãy ghi nhớ những yếu tố này. Bạn phải trả lại nó với lãi suất. Hãy cố gắng tìm xin để được tất cả các khoản trợ cấp và học bổng mà bạn có thể đủ điều kiện. Làm việc và dành dụm tất cả những gì bạn có thể, cho học phí. Lấy các khóa học có thể tìm việc làm ngay. Nhờ cha mẹ giúp đỡ. Trong thời Kinh Thánh, cha mẹ đã chia cho con cái của họ đất ruộng để chúng có thể kiếm sống. Ngày nay, sự “thừa kế” đó có lẽ phải là một nền giáo dục để chúng có thể trở thành những người trưởng thành độc lập.

Trong một thế giới lý tưởng, sẽ không có vay và không có nợ. Nhưng bởi vì chúng ta không sống trong một thế giới lý tưởng, nên đôi khi cần phải vay mượn. Nhưng cần đoan chắc rằng bạn có thỏa thuận tốt nhất có thể và mức lãi suất tốt nhất hiện có. Sau đó, vay số tiền tối thiểu mà bạn cần, và trả hết càng nhanh càng tốt để bớt phải trả lãi suất. Tuy nhiên, trên nguyên tắc, ở bất cứ mức độ của một con người mà ta có thể làm được, chúng ta nên tìm cách tránh nợ, và bằng cách tuân theo các nguyên tắc tài chính trong Kinh Thánh trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có thể đi một chặng đường dài để tránh những khoản nợ không cần thiết và tránh mang sự căng thẳng nặng nề mà nó có thể gây ra cho chúng ta và cho gia đình mình.

Nếu bạn đã cho người khác vay tiền, bạn trung thực, công bằng và tử tế như thế nào trong các thỏa thuận với họ? Bạn nghĩ trước mặt Chúa, bạn là thế nào khi phải trả lời về những thỏa thuận ấy? (Xin xem Truyền đạo 12:14).

Phương pháp ba bước tránh mắc nợ dưới đây được tìm thấy trên một trang trong các bài viết của Ellen G. White.

Hãy quyết tâm không bao giờ mắc thêm một khoản nợ nào nữa. Từ chối bản thân một nghìn điều còn hơn là mắc nợ. Đây là sự rủa sả của cuộc đời bạn, mang nợ. Hãy tránh nó như thể bạn tránh mắc bệnh đậu mùa.

Hãy lập một giao ước long trọng với Đức Chúa Trời rằng nhờ sự ban phước của Ngài, bạn sẽ trả được các món nợ của mình và sau đó không mắc nợ người nào nữa nếu bạn có đủ ăn dầu ăn cháo hay chỉ bánh mì. . . Đừng chùn bước, nản chí hay bỏ cuộc. Hãy từ chối sự thèm khát của khẩu vị bạn, từ chối sự ham ăn uống quá độ, dè sẻn đồng tiền của bạn và trả các nợ nần bạn có.

Thanh toán chúng càng nhanh càng tốt. Khi bạn có thể đứng lên thành một người tự do trở lại, không mắc nợ một người nào cả, ấy là bạn đã đạt được một chiến thắng vĩ đại.”—Counsels on Stewardship, trang 257.

Nếu bạn cần thêm các điểm khác để giúp việc không mắc nợ, hãy thử thêm các điểm dưới đây:

Lập ngân sách. Lập một ngân sách đơn giản bằng cách ghi lại tất cả các khoản thu nhập và chi phí và sắm sửa của bạn trong khoảng thời gian ba tháng. Nhiều người ngạc nhiên khi biết họ tiêu bao nhiêu tiền cho những thứ không cần thiết.

Hủy các thẻ tín dụng. Thẻ tín dụng là một trong những nguyên nhân chính khiến gia đình mắc nợ. Chúng rất dễ xài và rất khó để trả lại. Nếu bạn nhận thấy rằng bạn không thanh toán hết các món nợ trên thẻ mỗi tháng hoặc bạn đang dùng chúng để mua các mặt hàng mà lẽ ra bạn sẽ không mua nếu không có thẻ, bạn nên hủy thẻ tín dụng của mình trước khi chúng phá hủy bạn hoặc cuộc hôn nhân của bạn hoặc cả hai.

Bắt đầu tiết kiệm. Đôi khi chúng ta không biết mình có thể tiết kiệm được bao nhiêu từ những chi phí hằng tháng, nhưng khi cân nhắc kỹ lưỡng từng món hàng lặt vặt mà mình sẽ mua, thì số tiền khi cộng dồn lại là không phải nhỏ.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN:

  1. Ngày nay, số nợ mà nhiều quốc gia, cũng như các cá nhân, đã gánh cho mình thật đáng kinh ngạc. Bạn đã có kinh nghiệm gì về nợ và những vấn nạn mà nợ đã tạo ra cho bạn hoặc người khác?
  2. Hội thánh địa phương của bạn có thể làm gì để giúp các thành viên học cách quản lý nợ hoặc các vấn đề tài chính nói chung?
  3. Một số lời hứa trong Kinh Thánh mà bạn có thể tuyên bố để giúp bảo vệ bản thân khỏi sự lôi kéo của thế gian và những mối nguy hiểm về tài chính mà lòng tham có thể gây ra cho chúng ta?
Bài Học 4, 21 — 27 Tháng 1, 2023

Của Lễ Dâng Cho Chúa Giê-su

CÂU GỐC: “Tôi sẽ lấy gì báo đáp Đức Giê-hô-va về các ơn lành mà Ngài đã làm cho tôi? Tôi sẽ cầm cái chén cứu rỗi, mà cầu khẩn danh Đức Giê-hô-va. Tôi sẽ trả xong cho Đức Giê-hô-va các sự tôi hứa nguyện, tại trước mặt cả dân sự Ngài” (Thi thiên 116:12–14).

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: 2 Cô-rinh-tô 9:6, 7; Phục truyền 16:17; Thi thiên 116:12–18; 1 Sử Ký 16:29; Mác 12:41–44; Mác 14:3–9.

Ngoài phần mười, còn có những của lễ dâng đến từ 90 phần trăm vẫn thuộc quyền sở hữu của chúng ta sau khi phần mười đã được trả lại cho Đức Chúa Trời. Đây là nơi mà lòng rộng lượng bắt đầu. Các loại của lễ khác nhau do con dân Chúa dâng hiến, chẳng hạn như của lễ xưng tội, được dâng để đáp lại ân điển của Đức Chúa Trời hoặc của lễ tạ ơn, được dâng để công nhận sự che chở, ân phước về sức khỏe, thịnh vượng và quyền năng quan phòng của Đức Chúa Trời. Cũng có của dâng để cho người nghèo, và của dâng để xây dựng và duy trì nơi thờ phượng.

Khi xem xét tầm quan trọng của những món quà Chúa ban cho chúng ta, chúng ta bắt đầu thấy việc giúp đỡ nhà Chúa không chỉ đơn thuần là mở bãi đậu xe hay mua áo choàng cho dàn hợp xướng. Chúng ta mang những món quà của mình để đáp lại những gì Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta, đặc biệt là trong sự hy sinh của Chúa Giê-su. “Chúng ta yêu, vì Chúa đã yêu chúng ta trước” (1 Giăng 4:19). Sau đó, nhà thờ, dù là địa phương, giáo hạt hay trên toàn cầu, đều sử dụng các của lễ dâng của chúng ta để mở rộng vương quốc của Đức Chúa Trời.

Tuần này, chúng ta sẽ xem xét Kinh Thánh nói gì về các của lễ dâng như một phần trong quá trình chúng ta điều hành công việc hội thánh của Đức Chúa Trời trên đất.

Chúng ta yêu Chúa vì Ngài đã yêu chúng ta trước. Sự ban cho của chúng ta là để đáp lại món quà tuyệt vời của Ngài dành cho chúng ta, Đức Chúa Giê-su. Trên thực tế, chúng ta được cho biết, “Đức Chúa Trời không cần lễ vật của chúng ta. Chúng ta không thể làm giàu cho Ngài bằng những món quà của mình. Tác giả Thi thiên nói: ‘Mọi sự đều đến từ Ngài, chúng con dâng cho Ngài những gì thuộc về Ngài’. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời cho phép chúng ta bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với sự nhân từ của Ngài bằng cách bày tỏ lòng nhân từ bằng những nỗ lực hy sinh quên mình của chúng ta cho người khác. Đây là cách duy nhất để chúng ta có thể bày tỏ lòng biết ơn và tình yêu thương của mình đối với Đức Chúa Trời.”—Ellen G. White, Counsels on Stewardship, trang 18.

Khi chúng ta dâng hiến tiền bạc “của mình” cho Đức Chúa Giê-su, điều ấy thực sự củng cố tình yêu của chúng ta đối với Ngài và với những người khác. Vì vậy, tiền có thể là một sức mạnh thực sự cho điều tốt. Đức Chúa Giê-su đã dành nhiều thời gian để nói về tiền bạc và sự giàu có hơn bất kỳ chủ đề nào khác. Cứ sáu câu trong Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca thì có một câu nói về tiền bạc. Tin tốt lành của phúc âm là Đức Chúa Trời có thể giải cứu chúng ta khỏi việc yêu tiền và sử dụng tiền bạc sai lầm.

Đọc Ma-thi-ơ 6:31–34 và Phục truyền 28:1–14. Đức Chúa Trời hứa sẽ làm gì cho chúng ta nếu chúng ta vâng lời Ngài? Về phần chúng ta, có ích kỷ khi đòi những lời hứa của Đức Chúa Trời không?

Các của dâng của chúng ta là bằng chứng cho thấy sự sẵn sàng hy sinh và quên mình của cá nhân mỗi người vì Đức Chúa Trời. Chúng có thể là một kinh nghiệm tâm linh sâu sắc, một biểu hiện của thực tại rằng cuộc sống của chúng ta hoàn toàn đầu phục Đức Chúa Trời là Chúa của mình. Làm vậy là giống như trong thành ngữ tiếng Anh có câu, “đặt tiền mình nơi nào miệng mình nói về nơi ấy.” Bạn có thể nói rằng bạn yêu Chúa, nhưng sự dâng hiến rộng rãi giúp bộc lộ (hay cả củng cố) tình yêu ấy.

Của lễ đến từ tấm lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời của cá nhân mình, Đấng không ngừng cung cấp cho những nhu cầu của chúng ta tùy nghi Ngài thấy cần nhất. Của lễ của chúng ta dựa trên niềm xác tín rằng chúng ta đã tìm thấy sự bảo đảm về sự cứu rỗi trong Đấng Christ. Chúng không phải là để mua chuộc hay tìm kiếm sự chấp nhận của Đức Chúa Trời. Đúng hơn, của lễ của chúng ta phát xuất từ ​​tấm lòng đã tin nhận Đấng Christ bằng đức tin rằng Ngài là phương tiện duy nhất (ắt có và đủ) của ân điển và sự cứu chuộc.

Đọc 2 Cô-rinh-tô 9:6, 7. Chúa đang nói gì với chúng ta ở đây? “Tùy theo lòng mình đã định” là thế nào? Làm thế nào để chúng ta học được cách dâng hiến một cách vui lòng?

Đọc Phục truyền 16:17. Thay vì tỷ lệ phần trăm, Đức Chúa Trời đưa ra tiêu chí nào làm căn bản cho số lượng của phần dâng hiến?

Những gì chúng ta dâng là sự thừa nhận và bày tỏ lòng biết ơn của chúng ta đối với Đức Chúa Trời về những món quà dư dật của Ngài là: sự sống, sự cứu chuộc, sự nuôi dưỡng và các phước lành trong đời. Vì vậy, như chúng ta đã lưu ý trong đoạn văn trên, số lượng của sự dâng hiến của chúng ta dựa trên những gì chúng ta đã được ban phước. “Vì ai đã được ban cho nhiều, thì sẽ bị đòi lại nhiều” (Lu-ca 12:48).

Đọc Thi thiên 116:12–14. Chúng ta phải trả lời câu hỏi được đặt ra trong câu 12 như thế nào? Tiền của nằm trong câu trả lời như thế nào?

Làm cách gì chúng ta có thể đền đáp Đức Chúa Trời về tất cả mọi phước lành mà Ngài dành cho chúng ta? Câu trả lời đơn giản là chúng ta không bao giờ đền đáp đủ. Dường như cách tốt nhất chúng ta có thể làm là dâng hiến rộng rãi cho công việc Đức Chúa Trời, và giúp đỡ người đồng loại. Khi Đức Chúa Giê-su sai các môn đồ của Ngài ra đi truyền giáo, Ngài nói với họ, “Các ngươi đã được lãnh không thì hãy cho không” (Ma-thi-ơ 10:8). Sự dâng hiến của chúng ta góp phần vào việc phát triển cá tính chúng ta được giống như Đấng Christ. Do đó, chúng ta được thay đổi từ ích kỷ sang tình yêu; chúng ta biết quan tâm đến người khác và duyên cớ Đức Chúa Trời như Đấng Christ đã làm.

Chúng ta hãy luôn nhớ rằng “Vì Đức Chúa Trời yêu thương . . ., đến nỗi Ngài đã ban . . .” (xin xem Giăng 3:16). Ngược lại—tỏ tường như ngày và đêm—khi càng tích trữ nhiều cho bản thân, chúng ta sẽ càng trở nên ích kỷ hơn trong trái tim mình và chúng ta cũng sẽ cảm thấy khốn khổ hơn.

Chúng ta có quyền xác định số tiền mình ban cho (dâng hiến) vào tổ chức nào nhận quà tặng của mình. Nhưng mang lễ vật (tiền bạc) dâng lên Chúa là một bổn phận của Cơ Đốc nhân trong ý nghĩa thiêng liêng và đạo đức. Bỏ qua điều này là gây thiệt hại về tinh thần cho chính chúng ta, có lẽ còn nhiều hơn những gì chúng ta nhận thức được.

Của lễ và thái độ của bạn khi dâng nói gì về mối quan hệ của bạn với Đức Chúa Trời?

Kinh Thánh không cung cấp cho chúng ta một thứ tự các nghi thức trong một buổi thờ phượng. Nhưng dường như có ít nhất bốn điều chúng ta thấy có trong các buổi thờ phượng. Trong Tân Ước, các nghi thức này gồm có: nghiên cứu và giảng dạy, cầu nguyện, âm nhạc, phần mười và các của lễ dâng.

Mỗi năm, ba lần, tất cả những người nam (và gia đình họ) của Y-sơ-ra-ên xuất hiện trước mặt Chúa tại Giê-ru-sa-lem. Và “người ta chẳng nên đi tay không ra mắt Đức Giê-hô-va” (Phục truyền 16:16). Nói cách khác, một phần của kinh nghiệm thờ phượng là việc hoàn trả phần mười và dâng lễ vật. Chính vào Lễ Vượt Qua, Lễ Ngũ Tuần và Lễ Các Đền Tạm, con cái Đức Chúa Trời mang theo phần mười và của lễ. Thật khó để tưởng tượng một người nào đó đến với những bữa tiệc đó tay không.

Nói cách khác, đối với dân Y-sơ-ra-ên xưa, việc dâng phần mười và lễ vật là một phần trọng tâm trong kinh nghiệm thờ phượng của họ. Sự thờ phượng, sự thờ phượng thật, không chỉ thể hiện bằng lời nói, bài hát và cầu nguyện với lòng biết ơn của chúng ta đối với Đức Chúa Trời, mà còn bày tỏ lòng biết ơn đó bằng cách mang các của lễ dâng của chúng ta đến nhà Chúa. Họ mang nó đến đền thờ; chúng ta mang nó đến nhà thờ vào ngày Sa-bát (ít nhất là một cách để hoàn trả lại phần mười và lễ vật của chúng ta), một hành động thờ phượng.

Đọc 1 Sử Ký 16:29; Thi thiên 96:8, 9; và Thi thiên 116:16–18. Làm thế nào để chúng ta áp dụng các nguyên tắc được bày tỏ ở đây vào kinh nghiệm thờ phượng của chính mình?

Là con cái của Đức Chúa Trời, chúng ta được giao trách nhiệm là quản gia cho Ngài trên đất, việc mang lễ vật đến là một đặc ân, cơ hội và trách nhiệm của chúng ta. Nếu Chúa đã ban cho chúng ta con cái để nuôi nấng cho Ngài, thì chúng ta nên dạy và chia sẻ với chúng niềm vui khi chúng mang phần mười và tiền dâng đến Trường Sa-bát và các buổi lễ nhà thờ. Ở một số nơi, mọi người hoàn trả lại phần mười của họ qua mạng hoặc bằng các phương tiện khác. Bất kể phương tiện nào chúng ta làm điều đó, việc hoàn trả lại phần mười và các của lễ dâng là một phần trong kinh nghiệm thờ phượng của chúng ta với Đức Chúa Trời.

Bạn đã có kinh nghiệm gì về vai trò của việc trả lại phần mười và của lễ như một phần của sự thờ phượng? Thực hành điều này có tác động nào cho mối quan hệ của bạn với Đức Chúa Trời?

Đọc Mác 12:41–44. Dù giàu hay không giàu, chúng ta có thể rút ra sứ điệp nào từ câu chuyện này? Chúng ta học được nguyên tắc nào và làm thế nào chúng ta có thể áp dụng nó vào kinh nghiệm thờ phượng của chính mình?

Đức Chúa Giê-su và các môn đồ của Ngài đang ở trong sân đền thờ, nơi đặt các rương kho bạc, và Ngài quan sát những người đang mang tiền dâng đến. Ngài đứng khá gần nơi ấy để có thể thấy rằng có một bà góa đã dâng đồng tiền kẻm. Bà ta đã bỏ vào thùng tiền dâng tất cả những gì bà ta có. “Nhưng Đức Chúa Giê-su hiểu động lực của việc bà ta làm. Bà ta tin rằng việc phục vụ đền thờ là do Đức Chúa Trời chỉ định và bà ưu tư cố gắng làm hết sức mình để duy trì nó. Bà ta đã làm hết sức mình, và hành động của bà đã trở thành một sự ghi nhớ được nhắc nhở xuyên suốt thời gian, và niềm vui của bà là trong vĩnh cửu. Tấm lòng bà đã đi cùng với món quà của mình; giá trị của nó được ước tính, không phải bằng giá trị của đồng xu, mà bởi tình yêu bà có với Đức Chúa Trời và sự quan tâm đến công việc của Ngài đã thúc đẩy hành động ấy.”—Ellen G. White, Counsels on Stewardship, trang 175.

Một điểm rất quan trọng khác, đây chính là món tiền dâng duy nhất được Chúa Giê-su khen ngợi—một món tiền dâng cho một hội thánh sắp sửa chối bỏ Ngài, một hội thánh đã xa rời sự kêu gọi và sứ mạng của mình.

Đọc Công vụ 10:1–4. Tại sao một thầy đội La Mã nhận được sự thăm viếng từ một thiên sứ trên trời? Hai hành động nào của ông đã được ghi nhận trên thiên đàng?

Rõ ràng, không chỉ những lời cầu nguyện của chúng ta được nghe trên trời, mà động lực dâng hiến của chúng ta cũng được ghi nhận. Đoạn văn ghi nhận rằng Cọt-nây là một người ban cho cách rộng rãi. “Vì chưng của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó” (Ma-thi-ơ 6:21). Trái tim của Cọt-nây đặt vào những của bố thí. Ông đã sẵn sàng để tìm hiểu thêm về Đức Chúa Giê-su.

Cầu nguyện và bố thí có mối liên hệ chặt chẽ và thể hiện tình yêu thương của chúng ta đối với Đức Chúa Trời và đồng loại—hai nguyên tắc tuyệt vời của luật pháp Đức Chúa Trời: “Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết sức, hết trí mà kính mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi; và yêu người lân cận như mình” (Lu-ca 10:27). Điều thứ nhất được bày tỏ trong sự cầu nguyện, và điều thứ hai trong sự ban cho.

Nghiên cứu cho thấy rằng chỉ có khoảng 9 phần trăm tài sản của người ta là có tính thanh khoản tức là có thể sử dụng cấp thời chứ không phải là bất động sản là tài sản không có sẵn lập tức khi cần. Nghĩa chỉ có chín phần trăm tài sản có thể ban cho hay đóng góp trong thời điểm cấp bách. Tiền mặt, séc, quỹ tiết kiệm, quỹ thị trường tiền tệ, v.v., thường được coi là tài sản có tính thanh khoản, ít nhất là đối với những người sở hữu những thứ như thế này. Hầu hết tài sản của chúng ta, khoảng 91 phần trăm, được “đầu tư” vào bất động sản, chẳng hạn như nhà cửa, xe cộ, ruộng vườn, gia súc (với người ở nông thôn) hoặc các thứ không thanh khoản khác.

Sự khác biệt về tỷ lệ phần trăm của tài sản có tính thanh khoản và tài sản không thanh khoản có thể được minh họa bằng cách cho 100 xu vào hai chai thủy tinh khác nhau. Như thế bạn sẽ có 9 xu trong cái chai nhỏ đại diện cho 9 phần trăm tài sản có tính thanh khoản và 91 xu trong một cái chai lớn cỡ một phần tư đại diện cho 91 phần trăm tài sản không thanh khoản.

Hầu hết mọi người dâng hiến hoặc đóng góp từ chiếc chai nhỏ—từ tài sản lưu động của họ. Đây là những gì họ có trong tài khoản séc hoặc sổ tiền mặt của họ. Nhưng khi ai đó thực sự cảm động vì điều gì đó, họ sẽ cho từ chiếc chai lớn. Kinh Thánh kể nhiều câu chuyện như vậy.

Đọc Mác 14:3–9 và Giăng 12:2–8. Nhân vật chính trong bữa tiệc của Si-môn là ai? Món quà của Ma-ri có giá trị gì? Tại sao cô ấy lại xức dầu cho Đức Chúa Giê-su vào lúc này?

Món quà của Ma-ri trị giá 300 đơ-ni-ê — tương đương tiền lương của cả năm. Rất có thể đó là một món quà thuộc “cái chai lớn”. Sau sự việc này, Giu-đa đã phản bội Đức Chúa Giê-su để lấy hơn một phần ba số tiền đó—một món quà “cái chai nhỏ”, 30 miếng bạc (Ma-thi-ơ 26:15). Cần có tình yêu và sự cam kết thực sự để tạo ra những món quà lớn—là những gì từ các khoản đầu tư của chúng ta. Nhưng khi chúng ta tham lam, giống như Giu-đa, chúng ta có thể bán linh hồn của mình bằng một giá quá rẻ.

Công việc và hoạt động của Ba-na-ba được nhắc đến 28 lần trong Tân Ước. Chúng ta biết đến ông là qua vai trò một người bạn đồng hành với sứ đồ Phao-lô và như một nhà truyền giáo vĩ đại. Nhưng nền tảng cho tất cả những điều này được thiết lập trong phần đầu tiên, nơi ông được đề cập đến. Trong Công vụ 4:36, 37, chúng ta đọc về sự dâng hiến của ông, thực sự, một lễ vật của “một chai lớn”. Thật là một ví dụ mạnh mẽ về lời nói của Đấng Christ: “của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó” (Ma-thi-ơ 6:21).

Tại sao một món quà có sự hy sinh lại quan trọng đối với người cho cũng như đối với kẻ nhận?

Trong cuốn sách kỷ niệm ở thiên đàng cũng ghi nhận sự trung tín về tài chính của các thuộc viên trong gia đình Đức Chúa Trời. “Vì thiên sứ giữ sổ sách tận tụy ghi nhận không sai sót mọi của lễ dâng lên Đức Chúa Trời và đưa vào kho ngân khố của thiên đàng, và cũng ghi cả kết quả chung kết của những phương thức chúng được dâng hiến. Mắt Đức Chúa Trời nhìn thấy mọi hành động cống hiến cho mục đích của Ngài, và sự sẵn lòng hay miễn cưỡng của người cho. Động cơ thúc đẩy trong việc ban cho cũng được ghi chép lại. Những người hy sinh quên mình, dâng hiến trả lại cho Đức Chúa Trời những điều thuộc về Ngài, như Ngài yêu cầu ở họ, sẽ được thưởng tùy theo công việc của họ. Cho dù phương tiện có làm cho những của lễ thánh khiết có bị áp dụng sai cách, làm nó không hoàn thành mục tiêu mà người hiến tặng đã nghĩ đến,—là cho vinh quang của Đức Chúa Trời và sự cứu linh,—là những người đã hy sinh dâng hiến với lòng thành trong ánh mắt hướng về sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, họ sẽ không mất phần thưởng của họ.”—Ellen G. White, Testimonies to the Church, quyển 2, trang 518.

“Đức Chúa Trời mong muốn mọi người cầu nguyện và lập kế hoạch cho sự thăng tiến trong công việc của Ngài. Nhưng, giống như Cọt-nây, sự cầu nguyện và sự ban cho của chúng ta phải đi đôi với nhau. Những lời cầu nguyện của chúng ta và các của lễ ban phát của chúng ta phải được dâng lên trước mặt Chúa như một sự tưởng niệm. Đức tin không có việc làm là đức tin chết; và không có đức tin sống động thì không thể làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Trong khi cầu nguyện, chúng ta phải cống hiến tất cả những gì có thể, cả sức lao động và mọi phương tiện mình có được, để thực hiện những lời cầu nguyện của chúng ta. Nếu chúng ta hành động theo đức tin của mình, Đức Chúa Trời sẽ chẳng quên chúng ta. Ngài đánh dấu mọi hành động của tình yêu và sự quên mình. Ngài sẽ mở ra những phương cách để chúng ta có thể thể hiện đức tin của mình bằng các việc làm của mình.”—Ellen G. White, Atlantic Union Gleaner, số 17 tháng 6, 1903.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN:

  1. Làm thế nào để cầu nguyện và ban cho đi đôi với nhau? Có phải ấy là, cầu nguyện có thể giúp bạn biết nên cho cái gì, khi nào và cho bao nhiêu không?
  2. Một tạp chí nổi tiếng của Hoa Kỳ đã kể về những chuyên gia đầu tư trẻ tuổi ở Wall Street, những người kiếm được rất nhiều tiền nhưng lại quá khốn khổ, trống rỗng, đầy đau khổ và lo lắng. Một trong số họ, một nhà quản lý danh mục đầu tư, đã nói: “Rồi nếu tôi chết thì việc tôi kiếm được thêm một phần trăm trong danh mục đầu tư của mình có nghĩa gì?” Chúng ta có thể rút ra bài học nào từ câu chuyện này về việc ban cho, kể cả việc dâng hiến, có thể có lợi về mặt thiêng liêng như thế nào đối với người ban cho, nhờ đó nó giúp giải phóng chúng ta khỏi “sự quyến rũ của giàu sang” (Ma-thi-ơ 13:22)?
  3. Trong đoạn trích dẫn của Ellen G. White ở trên, hãy lưu ý phần nói về việc các quỹ đã bị “áp dụng sai”. Tại sao rất quan trọng cho chúng ta ghi nhớ quan điểm này của bà?
Bài Học 3, 14 — 20 Tháng 1, 2023

Khế Ước Một Phần Mười

CÂU GỐC: “Các ngươi hãy đem hết thảy phần mười vào kho, hầu cho có lương thực trong nhà ta; và từ nay các ngươi khá lấy điều nầy mà thử ta, Đức Giê-hô-va vạn quân phán, xem ta có mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng!” (Ma-la-chi 3:10).

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Sáng thế Ký 14:18–20; Ma-la-chi 3:10; Phục truyền 12:5–14; Lê-vi Ký 27:30; 1 Các Vua 17:9–16; 1 Cô-rinh-tô 4:1, 2.

Sáng thế Ký 14 ghi lại câu chuyện Áp-ram trở về sau sự thành công của cuộc giải cứu các con tin, mà trong đó có gia đình cháu của mình là Lót. Gia đình của Lót và những người khác bị bắt khỏi thành Sô-đôm. Vua Sô-đôm biết ơn sự giải cứu đến nỗi đã dâng cho Áp-ram tất cả chiến lợi phẩm của trận chiến. Áp-ram không những đã từ chối không nhận mà chính cá nhân ông còn dâng một phần mười của tất cả những gì ông có cho Mên-chi-xê-đéc.

Liền tức thì sau kinh nghiệm dâng một phần mười ấy của Áp-ram, Chúa phán, “Hỡi Áp-ram! ngươi chớ sợ chi; ta đây là một cái thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn” (Sáng thế Ký 15:1). Trên thực tế, Chúa đã nói với Áp-ram, “Đừng lo lắng. Ta sẽ là đấng bảo vệ và cung cấp cho ngươi”. Về sau, rất nhiều năm sau, chính Môi-se cũng nói với dân Y-sơ-ra-ên khi họ chuẩn bị tiến vào đất Ca-na-an, “Mỗi năm ngươi chớ quên đóng thuế một phần mười về huê lợi của giống mình gieo, mà đồng ruộng mình sanh sản . . . hầu cho ngươi tập hằng kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi” (Phục truyền 14:22, 23).

Ellen G. White viết: “Chúa đã đòi hỏi người ta dâng lên Ngài những của lễ dâng cho mục đích tôn giáo trước cả khi có hệ thống xác định việc dâng hiến một số nhất định được truyền cho Môi-se. Việc này đã có rất lâu, thậm chí từ thời của A-đam.”—Testimonies for the Church, quyển 3, trang 393.

Tất cả những điều này có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày nay?

Từ điển định nghĩa phần mười là “một phần mười của cái gì đó” hoặc “10 phần trăm”. Định nghĩa này có thể được lấy từ câu chuyện trong Kinh Thánh. Dâng phần mười chỉ đơn giản là trả lại 10 phần trăm thu nhập của chúng ta, hoặc của số lợi tức gia tăng, cho Chúa. Chúng ta hiểu rằng ngay từ đầu tất cả những gì chúng ta có đều thuộc về Ngài. Luật về dâng phần mười được ban cho dân Y-sơ-ra-ên tại Núi Si-nai chỉ ra rằng phần mười là thánh và thuộc về Đức Chúa Trời (xin xem Lê-vi Ký 27:30, 32). Đức Chúa Trời chỉ yêu cầu 10 phần trăm của Ngài. Sự dâng hiến tạ ơn của chúng ta là điều khác và không nằm trong phần mười. Dâng phần mười là bằng chứng tối thiểu về sự cam kết của Cơ Đốc nhân chúng ta. Không nơi nào trong Kinh Thánh mà chúng ta tìm thấy bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy phần của Đức Chúa Trời ít hơn một phần mười.

Đọc Sáng thế Ký 14:18–20 và Hê-bơ-rơ 7:1–9. Áp-ram phản ứng gì khi gặp Mên-chi-xê-đéc? Điều này dạy chúng ta điều gì về việc thực hành này đã lâu đời đến đâu trong lịch sử?

Lần đầu tiên dâng phần mười được đề cập đến trong Kinh Thánh là trong Sáng thế Ký 14, kể về cuộc gặp gỡ của Mên-chi-xê-đéc với Áp-ram. Lần chót việc dâng phần mười được đề cập đến trong Kinh Thánh là nhắc lại cuộc gặp gỡ trên (với Mên-chi-xê-đéc), nhưng các chữ “phần mười” và “dâng phần mười” được dùng như cùng một nghĩa (xin xem Hê-bơ-rơ 7:1–9). Lưu ý là trong Hê-bơ-rơ, cả Mên-chi-xê-đéc và Đấng Christ đều không thuộc chi phái Lê-vi, vì vậy phần mười đã có trước và cũng theo sau việc biệt riêng chi phái Lê-vi. Dâng phần mười như thế, không chỉ là một tục lệ của người Do Thái hay bắt nguồn từ người Do Thái tại Si-nai.

Đọc Sáng thế Ký 28:13, 14, 20–22. Đức Chúa Trời hứa sẽ làm gì cho Gia-cốp, và câu trả lời của Gia-cốp đối với Đức Chúa Trời là gì?

Khi Gia-cốp rời gia đình để chạy trốn khỏi người anh trai đang giận dữ của mình là Ê-sau, một đêm, chàng ta nằm mơ thấy một chiếc thang bắt từ đất lên trời. Các thiên sứ đã đi lên và đi xuống trên nó. Đức Chúa Trời đứng trên đỉnh cao của thang ấy và hứa sẽ ở cùng với Gia-cốp và một ngày nào đó sẽ đưa chàng trở về nhà. Người thanh niên đơn độc này đã trải nghiệm một sự hoán cải thực sự và nói, “và nếu tôi trở về bình an đến nhà cha tôi, thì Đức Giê-hô-va sẽ là Đức Chúa Trời tôi. Hòn đá đã dựng làm trụ đây sẽ là đền Đức Chúa Trời, và tôi sẽ nộp lại cho Ngài một phần mười mọi của cải mà Ngài sẽ cho tôi” (Sáng thế Ký 28:21, 22).

Tại sao rất quan trọng là chúng ta phải hiểu rằng dâng phần mười, giống như ngày Sa-bát, không phải là những điều bắt nguồn từ hệ thống luật pháp hoặc thậm chí tôn giáo của người Y-sơ-ra-ên thời cổ? Chúng ta, những người sống sau thập tự giá, nên nhận biết thông điệp nào từ lẽ thật này?

Đọc Ma-la-chi 3:10. Chúng ta có thể học được gì từ câu này về nơi phần mười của chúng ta sẽ đi về đâu?

Tuy bản văn không đưa ra các hướng dẫn cụ thể, nhưng rõ ràng là dân của Đức Chúa Trời biết ý Ngài muốn nói “kho” là gì. Trong các lời hướng dẫn của Ngài, Đức Chúa Trời có câu, “hầu cho có lương thực trong nhà Ta.” Dân của Ngài hiểu rằng ban đầu nhà của Đức Chúa Trời là đền thánh—là đền tạm được xây dựng theo những lời chỉ vẽ chi tiết truyền cho Môi-se tại Núi Si-nai. Sau đó, khi Y-sơ-ra-ên sống tại Đất Hứa, vị trí trung tâm đầu tiên là ở Si-lô và sau đó là lâu dài hơn tại đền thờ ở Giê-ru-sa-lem.

Đọc Phục truyền 12:5–14. Các câu này không chỉ ra rằng con cái của Đức Chúa Trời có thể tự quyết định về nơi nộp phần mười của họ. Ngày nay, chúng ta có thể lấy những nguyên tắc nào từ những câu này cho chính mình?

Là thuộc viên trong gia đình của Đức Chúa Trời, chúng ta muốn hiểu và thực hành ý muốn của Ngài về những việc phải làm với phần mười của chúng ta. Theo lời Kinh Thánh, chúng ta biết rằng ba lần trong mỗi năm—Lễ Vượt Qua, Lễ Ngũ Tuần và Lễ Các Đền Tạm (Xuất Ê-díp-tô Ký 23:14–17)—Dân sự của Đức Chúa Trời đã đến Giê-ru-sa-lem và đích thân mang theo phần mười và các của lễ dâng hiến của họ và để ca ngợi và thờ phượng Chúa. Sau đó, người Lê-vi phân phát những phần mười ấy cho mọi người Lê-vi, anh em họ trên khắp đất Y-sơ-ra-ên (xin xem 2 Sử Ký 31:11–21, Nê-hê-mi 12:44–47, Nê-hê-mi 13:8–14). Để làm theo nguyên tắc dâng hiến cho nhà Chúa như trong Kinh Thánh, Giáo Hội Cơ Đốc Phục Lâm có các Nhà Thờ địa phương, Địa Hạt, và Liên Hiệp Hội giữ vai trò như là những nhà kho cho Giáo Hội trên toàn thế giới. Nhờ đó có thể chi trả cho công việc truyền giáo.

Để thuận tiện cho các thuộc viên hội thánh, tiền dâng phần mười được mang đến hội thánh địa phương, là nơi, như một phần của sự thờ phượng của họ, các thuộc viên mang phần mười và tiền dâng đến dâng, tuy một số ngày nay dâng hiến qua mạng trực tuyến. Sau đó, các thủ quỹ địa phương chuyển phần mười đến nhà kho giáo hạt. Hệ thống quản lý phần mười này, do Đức Chúa Trời vạch ra và phong chức, đã giúp Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm có khả năng phát triển và ảnh hưởng trên toàn thế giới.

Hãy tưởng tượng nếu mọi người quyết định dâng phần mười của họ cho bất kỳ ai họ muốn, thay vì hoàn trả vào kho của hội thánh. Điều gì sẽ xảy ra với phong trào Cơ Đốc Phục Lâm và với hội thánh của chúng ta? Như vậy, tại sao thực hành điều ấy lại là một ý tưởng không tốt và trái với Kinh Thánh?

Đọc Lê-vi Ký 27:30 và Dân số Ký 18:21, 24. Đức Chúa Trời đề nghị làm gì với phần mười?

Vì Đức Chúa Trời là sở hữu chủ của mọi thứ (Thi thiên 24:1), nên rõ ràng Ngài không cần tiền. Nhưng vì phần mười là của Ngài, nên Ngài cho chúng ta biết phải làm gì với nó, và đó là dùng phần mười của Ngài để hỗ trợ cho chức vụ truyền giáo. Và do đó, nhu cầu của các mục sư, truyền đạo, nhân viên truyền giáo được trang trải bằng phần mười của Đức Chúa Trời.

Chi phái Lê-vi—nhóm người làm công việc truyền giáo và các mục vụ trong thời Cựu Ước—đã không được ban chia đất đai lớn như các chi phái khác. Chi phái Lê-vi đã được cấp cho một số các thành nhất định, gồm cả các thành trú ẩn, với đủ đất xung quanh họ để làm vườn cá nhân. Họ được hỗ trợ bởi phần mười của những người khác, và bản thân họ cũng dâng phần mười lợi tức của mình.

Đọc Công vụ 20:35. Thông điệp ở đây là gì và điều này liên quan như thế nào đến câu hỏi về dâng phần mười?

Dâng phần mười là điều quan trọng vì nó giúp chúng ta thiết lập mối quan hệ tin cậy với Đức Chúa Trời. Biệt riêng một phần mười lợi tức của bạn và “cho đi” (dầu đúng ra, nó thuộc về Đức Chúa Trời) thực sự là một hành động của đức tin, và chỉ khi thực thi đức tin, đức tin của bạn mới phát triển.

Thí dụ, hãy nghĩ về thời kỳ cuối cùng, khi những tín đồ trung tín theo Chúa không thể mua hoặc bán, như được mô tả trong Khải huyền 13–14 (xem bài học tuần 11). Việc phát triển một tấm lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời với sự quan phòng, quyền năng và tình yêu thương của Ngài sẽ là điều tối quan trọng khi dường như cả thế giới đều chống lại chúng ta. Sự trung tín trong phần mười của một người chắc chắn có thể giúp người ấy phát triển lòng tin đó. Và ngay cả trước những thời kỳ đó, tất cả chúng ta cần phải học cách tin cậy Chúa, bất kể hoàn cảnh của chúng ta như thế nào.

Lý do lớn thứ hai cho sự trung tín về tài chính là cơ hội nhận được các phước lành như lời hứa của Đức Chúa Trời. Một phần của khế ước phần mười là Đức Chúa Trời đã hứa ban ân phước dồi dào đến mức chúng ta sẽ không có đủ chỗ để chứa chúng. Với phước lành dư dật của mình, chúng ta có thể giúp đỡ người khác và hỗ trợ công việc của Đức Chúa Trời bằng các sự dâng hiến.

Bạn đã trải nghiệm sự thật vĩ đại rằng thật sự là “ban cho có phước hơn nhận lãnh” theo những cách nào?

Chúng ta tính phần mười của mình trên lợi tức “thu nhập” nếu chúng ta được trả theo giờ hoặc theo lương; và chúng ta trả trên “phần tăng thêm” hoặc lợi nhuận của mình nếu chúng ta tự kinh doanh và có cơ sở kinh doanh riêng. Ở nhiều quốc gia, chính phủ lấy thuế từ lương của người làm việc để trang trải các chi phí dịch vụ được thực hiện cho người dân, chẳng hạn như an ninh, cầu đường, trợ cấp thất nghiệp, v.v. Câu hỏi về tổng hay ròng (tiếng Mỹ là gross và net income) chủ yếu là về việc chúng ta hoàn trả phần mười thu nhập của mình trước (gross) hay sau khi các khoản thuế đó được lấy rồi (net). Những người tự kinh doanh có thể khấu trừ hợp pháp các chi phí kinh doanh để xác định lợi nhuận thật của họ trước khi khấu trừ thuế cá nhân.

Các nghiên cứu về thói quen đóng góp của thuộc viên hội thánh cho thấy rằng phần lớn tín hữu Cơ Đốc Phục Lâm dâng phần mười trên tổng thu nhập, tức là trước khi trừ thuế.

Đọc 1 Các Vua 17:9–16. Hoàn cảnh của bà góa như thế nào trước khi Ê-li đến nhà bà? Nhà tiên tri yêu cầu bà làm gì trước khi lo cho phần bà và con trai bà? Chúng ta có thể học được gì từ câu chuyện này để trả lời cho câu hỏi của bài học hôm nay?

Bà góa thành Xa-rép-ta được Đức Chúa Trời cho biết rằng một người của Đức Chúa Trời sẽ đến gặp bà (1 Các Vua 17:9). Khi Ê-li đến, bà giải thích hoàn cảnh tuyệt vọng của mình. Trước tiên, Ê-li xin uống nước, rồi nói thêm: “Chớ sợ chi, hãy trở về làm y như ngươi đã nói; song trước hãy dùng bột ấy làm cho ta một cái bánh nhỏ, rồi đem ra cho ta; kế sau ngươi sẽ làm cho ngươi và cho con trai ngươi. Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã phán như vầy: Bột sẽ không hết trong vò, và dầu sẽ không thiếu trong bình, cho đến ngày Đức Giê-hô-va giáng mưa xuống đất” (1 Các Vua 17:13, 14).

Đây có phải là sự ích kỷ về phía nhà tiên tri không, hay chỉ đơn giản là ông thử thách đức tin của bà—mà trên thực tế, đã cho bà có cơ hội thực hiện đức tin mình? Chúng ta thấy câu trả lời thật rõ ràng.

Điểm mấu chốt về tổng hay ròng là tùy mỗi chúng ta quyết định. Hội thánh bắt buộc chúng ta phải làm gì, và đó là đúng. Cuối cùng, mỗi chúng ta cần phải có sự lựa chọn của riêng mình, và dù làm gì đi nữa, chúng ta không được phán xét những người làm khác mình. Mỗi người trong chúng ta, mỗi cá nhân, phải trả lời với Chúa, và chỉ một mình Chúa, cho những lựa chọn của chúng ta. “Mọi người đều phải là người đánh giá của chính mình và được dâng hiến tùy theo ý muốn của mình.”—Ellen G. White, Testimonies to the Church, quyển 4, trang 469.

Bạn giải thích thế nào với một người chưa bao giờ dâng phần mười về những phước lành đến từ việc hoàn trả phần mười cho Chúa? Các phước lành ấy là gì, và việc trả phần mười củng cố đức tin của bạn như thế nào?

Đọc 1 Cô-rinh-tô 4:1, 2. Là con cái của Đức Chúa Trời và là người quản lý các ân phước của Ngài, chúng ta được yêu cầu trở thành loại người nào?

Vậy, trung tín với phần mười của mình có nghĩa là gì? Tuần này, chúng ta đã xem xét một số yếu tố gì là phần mười:

1. Số tiền—là một phần mười, hoặc 10 phần trăm, thu nhập hoặc phần tăng thêm của chúng ta.
2. Được đưa đến nhà kho—nơi trả lương cho những người truyền đạo phúc âm.
3. Tôn vinh Chúa bằng trước tiên biệt riêng cho Ngài từ phần thu nhập của chúng ta.
4. Được dùng đúng mục đích—hỗ trợ mục vụ truyền giáo.

Là thuộc viên hội thánh, chúng ta có trách nhiệm duy trì ba mục đầu tiên; mục bốn là trách nhiệm của những người quản lý kho đảm bảo rằng tiền dâng phần mười được sử dụng phải lẽ.

Và nữa, không giống như những sự dâng hiến khác của chúng ta, phần mười không phải là tùy ý của chúng ta. Một phần mười và nhà kho đều thuộc trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta không đặt các thông số; Đức Chúa Trời đặt chúng. Nếu tôi không hoàn trả lại đầy đủ 10 phần trăm “phần tăng” của mình, thì tôi thực sự không phải dâng phần mười; và nếu tôi không mang 10 phần trăm đó vào “nhà kho”, thì tôi cũng không thực sự là dâng phần mười.

Đọc Ma-thi-ơ 25:19–21. Khi nào chúng ta được kêu gọi để trình bày về cách chúng ta quản lý các quỹ của Đức Chúa Trời? Điều gì được nói với những người đã trung tín về tài chính?

“‘Hãy đem hết thảy phần mười vào kho’ (Ma-la-chi 3:10), là mệnh lệnh của Đức Chúa Trời. Mệnh lệnh này không kèm theo lời kêu gọi lòng biết ơn hoặc sự hào phóng. Mệnh lệnh này là về sự trung thực. Phần mười là của Chúa; và Ngài đòi chúng ta hoàn trả cho Ngài phần của chính Ngài.”—Ellen G. White, Education, trang 138. Quản gia cho Đức Chúa Trời là một đặc ân có một không hai—và cũng là một trách nhiệm. Ngài ban phước và nâng đỡ chúng ta và chỉ yêu cầu một phần mười, và Ngài dùng phần mười ấy để cung cấp cho những người trong thánh chức, như Ngài đã làm cho chi phái Lê-vi trong thời Y-sơ-ra-ên cổ đại.

Một số người cho rằng họ không thích cách tiền phần mười của họ được sử dụng và do đó họ không hoàn trả phần mười hoặc gửi tiền của họ ở một nơi khác. Tuy nhiên, ở đâu Đức Chúa Trời đã nói “Hãy đem phần mười vào kho, nhưng chỉ khi ngươi chắc rằng kho dùng nó phải lẽ”?

“Nếu hết thảy phần mười của chúng ta được hoàn trả vào kho của Chúa một cách trung tín, thì chúng ta sẽ nhận được rất nhiều ơn phước, những món tiền dâng cho mục đích thiêng liêng này sẽ được nhân lên gấp mười, và sự thông công giữa Đức Chúa Trời và con người sẽ càng gần gũi hơn.”—Ellen G. White, Testimonies for the Church, quyển 4, trang 474. Đây là một ý tưởng tuyệt vời. Nếu hết thảy chúng ta đều trung tín trong việc dâng phần mười, thì Chúa sẽ ban phước đến nỗi tiền dâng hiến sẽ tăng lên gấp mười lần.

“Trong đoạn thứ ba của Ma-la-chi, người ta thấy giao ước mà Đức Chúa Trời đã lập với con người. Ở đây Chúa chỉ rõ phần Ngài sẽ hành động để ban tặng những món quà lớn lao của Ngài cho những ai sẽ trung tín hoàn trả cho Ngài bằng phần mười và các của dâng.”—Ellen G. White, Review and Herald, ngày 17 tháng 12 năm 1901.

“Chúng ta nên nhớ rằng sự đòi hỏi này mà Chúa dành cho chúng ta chính là nền tảng của những đòi hỏi khác. Ngài ban cho chúng ta một cách dư dật, và giao ước mà Ngài đã lập với con người là một phần mười số tài sản có được sẽ hoàn trả lại cho Đức Chúa Trời. Chúa đã tin tưởng giao phó kho báu cho những quản gia của Ngài, nhưng phần mười, thì Ngài phán rằng: Đó là của Ta. Đức Chúa Trời đã ban cho chừng nào, thì tương ứng như vậy chúng ta cũng phải trung tín hoàn lại một phần mười sản vật của mình cho Đức Chúa Trời. Và chính Chúa Giê-su cũng đã thực hành lời phán đặc biệt này.”—Ellen G. White, Testimonies for the Church, quyển 6, trang 384.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN:

  1. Hãy suy nghĩ kỹ hơn về ý tưởng này rằng việc thực hành dâng phần mười không bắt nguồn từ dân Y-sơ-ra-ên thời cổ. Sự kiện này giúp chúng ta hiểu thế nào về tính lâu dài của nghĩa vụ này trước mặt Đức Chúa Trời?
  2. Trong lớp, thảo luận về câu hỏi được đặt ra vào cuối buổi học thứ Hai. Hãy nghĩ điều gì sẽ xảy ra nếu mọi người quyết định gửi phần mười của họ về một nơi khác. Điều gì sẽ xảy ra với hội thánh của chúng ta? Liệu chúng ta còn có hội thánh không? Có gì sai với thái độ nói rằng, Chà, phần mười của tôi quá nhỏ so với mọi thứ khác, nó chẳng đáng quan trọng? Nếu mọi người đều nghĩ như vậy thì sao?
  3. Chia sẻ với người khác những gì bạn đã học được và kinh nghiệm từ việc hoàn trả phần mười. Bạn có thể nói gì cho người khác về việc luyện tập thói quen này?
Bài Học 2, 7 — 13 Tháng 1, 2023

Các Giao Ước Đức Chúa Trời Có Với Chúng Ta

CÂU GỐC: “Nếu ngươi nghe theo tiếng phán của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi cách trung thành, cẩn thận làm theo mọi điều răn của Ngài, mà ta truyền cho ngươi ngày nay, thì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi sẽ ban cho ngươi sự trổi hơn mọi dân trên đất. Nếu ngươi nghe theo tiếng phán của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, nầy là mọi phước lành sẽ giáng xuống trên mình ngươi” (Phục truyền 28:1, 2).

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Ma-thi-ơ 10:22, Giăng 6:29, Phục truyền 28:1–14, Châm ngôn 3:1–10, Ma-la-chi 3:7–11, Ma-thi-ơ 6:25–33.

Thật diệu kỳ, Đức Chúa Trời lại lập giao ước với chúng ta. Hầu hết các giao ước hay giao kèo là song phương, có nghĩa là cả hai bên (Chúa và con người) đều có một phần để thực hiện. Một ví dụ về giao ước song phương là “Nếu bạn sẽ làm điều này, thì tôi sẽ làm điều đó.” Hoặc “Tôi sẽ làm điều này nếu bạn sẽ làm điều đó.”

Một loại giao ước hiếm hơn là giao ước đơn phương. “Tôi sẽ làm điều này cho dù bạn có làm bất cứ điều gì hay không.” Một số giao ước của Đức Chúa Trời với nhân loại là đơn phương. Thí dụ, “Ngài khiến mặt trời mọc lên soi kẻ dữ cùng kẻ lành, làm mưa cho kẻ công bình cùng kẻ độc ác” (Ma-thi-ơ 5:45). Dù làm hay không làm gì, chúng ta đều có thể trông cậy vào Chúa cho chúng ta nắng mưa. Sau trận Đại hồng thủy, Đức Chúa Trời đã hứa với nhân loại và “mọi loài thú trên đất” rằng sẽ không bao giờ có một trận lụt nào khác bao phủ khắp trái đất (xin xem Sáng thế Ký 9: 9–16), bất kể chúng ta có hành động gì. Ngài cũng hứa: “Hễ đất còn, thì mùa gieo giống cùng mùa gặt hái, lạnh và nóng, mùa hạ cùng mùa đông, ngày và đêm, chẳng bao giờ tuyệt được” (Sáng thế Ký 8:22). Các mùa sẽ đến và đi, bất kể chúng ta làm gì.

Tuần này, chúng ta sẽ nghiên cứu một số giao ước song phương rất quan trọng giữa Đức Chúa Trời và con cái Ngài. Chúng ta hãy cầu nguyện rằng, nhờ ân điển của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ “làm trọn phần mình của giao kèo”.

Sự chết của Đấng Christ trên đồi Gô-gô-tha đã làm sự cứu rỗi trở thành khả dĩ cho mọi con người đã từng sống hoặc sẽ từng sống. Không giống như lời hứa về các mùa, sự cứu rỗi không phải đơn phương — nó không phải là ai cũng nhận được, cho dù họ có làm gì đi nữa. Niềm tin rằng tất cả mọi người sẽ được cứu được gọi là “chủ nghĩa phổ quát”.

Đúng ra, Đức Chúa Giê-su dạy rõ ràng rằng, dầu dù Ngài đã chết cho toàn thể nhân loại, nhưng nhiều người sẽ đi trên con đường rộng dẫn đến sự chết và sự chết đời đời (Ma-thi-ơ 7:13, 14).

Các đoạn văn sau đây nói gì về cách mọi người nhận được ân tứ cứu rỗi trong Đức Chúa Giê-su?

1 Giăng 5:13

Ma-thi-ơ 10:22

Giăng 6:29

2 Phi-e-rơ 1:10, 11

Phao-lô hiểu bản chất song phương của giao ước cứu rỗi. Biết rằng mình sẽ sớm bị xử tử, và mặc dù nhiều người bạn đồng hành đã bỏ rơi mình, nhưng Phao-lô đã tự tin nói với học trò thân yêu của mình là Ti-mô-thê rằng ông đã làm trọn phần mình. “Về phần ta, ta đang bị đổ ra làm lễ quán, kỳ qua đời của ta gần rồi. Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin. Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta; Chúa là quan án công bình, sẽ ban mão ấy cho ta trong ngày đó, không những cho ta mà thôi, nhưng cũng cho mọi kẻ yêu mến sự hiện đến của Ngài” (2 Ti-mô-thê 4:6–8).

Phao-lô nói, “Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin.” Tuy nhiên, Phao-lô luôn rất rõ ràng rằng sự cứu rỗi là bởi đức tin, không phải do việc làm theo luật pháp, và vì vậy ở đây, ông không xem những công việc hoặc thành tích của mình như là việc ông có công với Đức Chúa Trời. “Mão triều thiên của sự công bình” dành cho ông chính là sự công bình của Đức Chúa Giê-su, mà Phao-lô, bởi đức tin, đã đạt được và gìn giữ cho đến cuối đời.

Mặc dù sự cứu rỗi là một món quà ban cho không do nơi công đức của kẻ được nhận, sự khác biệt giữa những người chấp nhận món quà và những người không nhận món quà đó là gì? Nhận món quà này đòi hỏi chúng ta phải làm gì?     

Sách Phục truyền Luật lệ Ký là bản viết xuống các sứ điệp giã từ của Môi-se dành cho thế hệ thứ hai của dân Y-sơ-ra-ên sau bốn mươi năm lưu lạc trong đồng vắng. Những thông điệp này được ông nói cùng họ khi họ đứng giữa vùng đồng bằng của Mô-áp, ngay phía đông Giê-ri-cô. Phục truyền Luật lệ Ký đã được gọi một cách thích hợp là “Cuốn sách của sự tưởng nhớ.”

Trong sách này, Môi-se điểm lại những cách đối xử trung thành của Đức Chúa Trời với dân Y-sơ-ra-ên. Ông kể lại chuyến du hành từ Núi Si-nai đến Ka-đết Ba-nê-a ở bìa Miền Đất Hứa, cũng như cuộc nổi loạn và 40 năm lưu lạc trong đồng vắng. Ông nhắc lại Mười Điều Răn, sự đòi hỏi việc hoàn trả phần mười và kho chứa các sản vật. Nhưng trọng tâm chính của Phục truyền Luật lệ Ký là lời khuyên phải vâng lời Đức Chúa Trời và nhận các phước lành của Ngài. Môi-se miêu tả Đức Chúa Trời là Đấng có khả năng và lòng mong muốn được chăm sóc cho dân sự của Ngài.

Đọc Phục truyền 28:1–14. Những ân phước lớn lao nào được hứa cho dân sự? Nhưng họ phải làm gì để nhận được chúng?

Môi-se rất mong muốn dân sự hiểu rằng lòng Đức Chúa Trời có những phước lành tuyệt vời, thậm chí là kỳ diệu cho họ. Những lời của ông, “Nếu ngươi nghe theo tiếng phán của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi” cho họ biết rằng vận mạng vĩnh cửu của họ là tùy thuộc vào những lời ông nói đây. Thật là một biểu hiện mạnh mẽ của thực tế về sự lựa chọn tự do. Họ là dân tộc được chọn của Ngài, là những kẻ được ban những ân phước lớn lao và những lời hứa tuyệt vời, nhưng những phước hạnh và lời hứa đó không phải là vô điều kiện. Chúng cần được chấp nhận, tiếp nhận và sử dụng.

Và những điều Chúa yêu cầu họ chẳng gì quá khó để họ thực hiện. “Điều răn nầy mà ta truyền cho ngươi ngày nay chẳng phải cao quá ngươi, hay là xa quá cho ngươi. Nó chẳng phải ở trên trời, để ngươi nói rằng: Ai sẽ lên trời đem nó xuống cho chúng tôi nghe, đặng chúng tôi làm theo? Nó cũng chẳng phải ở bên kia biển, để ngươi nói rằng: Ai sẽ đi qua bên kia biển, đem nó về cho chúng tôi nghe, đặng chúng tôi làm theo? Vì lời nầy rất gần ngươi, ở trong miệng và trong lòng ngươi, để ngươi làm theo nó” (Phục truyền 30:11–14).

Tất nhiên, bên cạnh các phước lành, có những lời cảnh báo về sự rủa sả, điều gì sẽ đến với họ nếu họ không tuân theo (Phục truyền 28:15–68), nghĩa là tội lỗi và sự nổi loạn của họ sẽ mang lại hậu quả gì.

Ngày nay, việc “nghe theo tiếng phán” có ý nghĩa gì đối với chúng ta?

Sách Châm ngôn không nói nhiều về đúng sai nhưng nói rất nhiều về sự khôn ngoan và dại dột. Khi đọc hết cuốn sách, người ta sẽ thấy lợi ích của sự khôn ngoan và cạm bẫy của sự ngu dại.

Đọc Châm ngôn 3:1–10. Có những lời hứa tuyệt vời nào được đưa ra ở đây? Ngoài ra, “Hãy lấy tài vật và huê lợi đầu mùa của con” có nghĩa là gì?

Đức Chúa Trời biểu chúng ta đặt Ngài lên hàng đầu trong việc chúng ta quản lý tài sản mình để bày tỏ sự thừa nhận quyền sở hữu của Chúa trên mọi sự, và cũng là sự thể hiện đức tin chúng ta đặt nơi Ngài là Đấng cung cấp mọi nhu cầu. Nhưng còn hơn thế nữa, Ngài nói rằng nếu chúng ta đặt Ngài trước, thì Ngài sẽ ban phước cho những gì còn lại. Đối với chúng ta, làm điều này—nghĩa là đặt Ngài lên hàng đầu—là một hành động của đức tin, một hành động tin cậy, một biểu hiện của sự tin cậy nơi Chúa hết lòng và thật vậy, không dựa vào sự hiểu biết của riêng mình (là điều rất quan trọng, bởi vì rất thường khi, những việc xảy ra quanh mình hay trong cuộc sống mình là những điều mà chúng ta không thể hiểu và cảm hội hết được).

Tuy nhiên, không có điều gì có thể thúc đẩy chúng ta tin cậy Chúa và tình yêu của Ngài hơn là thập tự giá. Khi bạn nhận ra điều mà mỗi người chúng ta đã được ban cho trong Đức Chúa Giê-su, không phải chỉ vì Ngài là Đấng Tạo Hóa (Giăng 1:1–4) và Đấng Bền Vững của chúng ta (Hê-bơ-rơ 1:3), mà còn là vì Ngài cũng là Đấng Cứu Chuộc của chúng ta (Khải huyền 5:9), trả lại cho Chúa những huê lợi đầu tiên của bất cứ thứ gì chúng ta có, quả thật là điều ít nhất chúng ta có thể làm được.

“Chúa không chỉ tuyên bố tiền phần mười là của riêng Ngài, mà Ngài còn cho chúng ta biết nó nên được dành riêng cho Ngài như thế nào. Ngài phán: “Hãy lấy tài vật và huê lợi đầu mùa của con, mà tôn vinh Đức Giê-hô-va.” Điều này không dạy rằng chúng ta dùng lợi tức mình có cho chính mình, rồi đem những gì còn lại dâng cho Chúa, nhưng ngược lại phải dâng cho Chúa trước hết và dâng một cách trung tín. Hãy biệt riêng phần của Chúa ra trước hết.”—Ellen G. White, Counsels on Stewardship, trang 81.

Chúa phán rằng nếu chúng ta đặt Ngài lên trước hết thì “các vựa lẫm con sẽ đầy dư dật” (Châm ngôn 3:10). Tuy nhiên, nó sẽ không xảy ra như một phép mầu; không phải một ngày đẹp trời khi thức dậy tự nhiên bạn thấy nhà kho của mình đầy tràn.

Thay vào đó, Kinh Thánh có rất nhiều nguyên tắc quản gia tốt lành, như là lên kế hoạch một cách cẩn thận và có trách nhiệm tài chính, là những nguyên tắc giúp chúng ta trung tín với những công việc Chúa giao phó, vì đó là trách nhiệm hàng đầu và quan trọng nhất của chúng ta.

Tuy nhiên, làm thế nào chúng ta học để tin cậy Đức Chúa Trời và những lời hứa của Ngài trong những thời kỳ khó khăn về tài chính, ngay cả khi chúng ta đang tìm cách trung tín, mà các vựa lẫm và thùng vẫn chưa đầy?

Việc thực hành sự hoàn trả phần mười là một liên hệ tâm linh rất mật thiết với mối tương quan của chúng ta với Đức Chúa Trời. Dân Y-sơ-ra-ên được thịnh vượng khi họ vâng lời Đức Chúa Trời và trung thành dâng phần mười. Ngược lại, họ đã rơi vào hoàn cảnh khó khăn khi họ không làm như vậy. Họ dường như đi theo một chu kỳ vâng lời và thịnh vượng, rồi kế đó là bất tuân và nhiều vấn nạn. Ngay chính trong những giai đoạn bất trung này của họ, qua tiên tri Ma-la-chi, Chúa đã lập ra giao ước với dân sự của Ngài.

Đọc Ma-la-chi 3:7–11. Các lời hứa và nghĩa vụ nào được tìm thấy trong những câu này?

Đức Chúa Trời đã hứa với dân Ngài rằng nếu họ quay trở lại với Ngài, thì Ngài sẽ trở lại với họ. Khi họ hỏi Ngài có ý gì khi nói rằng trở lại với Ngài, Ngài đã phán rõ ràng: “Các ngươi đã ăn trộm trong các phần mười và trong các của dâng.” Sự trộm cắp của họ là lý do khiến họ bị rủa sả. Đây là giải pháp của Đức Chúa Trời để giải quyết những sự nguyền rủa này: “Các ngươi hãy đem hết thảy phần mười vào kho” (Ma-la-chi 3:10). Và nếu các ngươi làm điều này, thì “xem ta có mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng”. Nếu chúng ta không có đủ chỗ để chứa hết các ơn phước Chúa ban thì chúng ta sẽ có phần thặng dư mà chúng ta có thể giúp đỡ người khác và giúp thúc đẩy công việc của Đức Chúa Trời.

“Ngài là Đấng đã ban Con một của Ngài để chết vì chúng ta, đã lập giao ước với chúng ta. Ngài ban cho các phước lành, và đổi lại Ngài yêu cầu chúng ta hoàn trả cho Ngài phần mười và các của dâng. Có ai dám nói rằng mình không cách nào hiểu được việc này. Kế hoạch của Đức Chúa Trời liên quan đến phần mười và các của dâng đã được nêu tỏ tường trong đoạn thứ ba của Ma-la-chi. Đức Chúa Trời kêu gọi dân sự phải trung tín với giao ước mà Ngài đã lập với họ.”—Ellen G. White, Counsels on Stewardship, trang 75.

Một trong những chu kỳ tốt đẹp của sự vâng lời được ghi lại dưới thời trị vì của Vua Ê-xê-chia nhân hậu của Giu-đa. Có một sự phục hưng thực sự ở Giu-đa, và dân chúng bắt đầu trung thành hoàn trả phần mười và các của dâng của họ vào kho trong đền thờ. Nhiều đến nỗi nó được chất thành đống ở đền thờ. 2 Sử Ký 31:5 cho biết điều gì đã xảy ra cho dân sự “khi chỉ dụ của vua mới truyền ra, thì dân Y-sơ-ra-ên đem đến rất nhiều sản vật đầu mùa về ngũ cốc, rượu, dầu, mật, và những thổ sản khác; chúng đem đến một phần mười của mọi vật thật rất nhiều.”

Phần mười của bạn hoàn trả (hoặc không có) nói gì về tâm linh và mối quan hệ của bạn với Đức Chúa Trời?

Người ta nói về Đức Chúa Giê-su rằng “đoàn dân đông vui lòng mà nghe ngài” (Mác 12:37). Hầu hết những người trong đám đông lớn theo dõi và lắng nghe Chúa Giê-su là những người thuộc tầng lớp thường dân. Họ là những người được cho ăn trên đồi của Hồ Ga-li-lê, và những người đã nghe Bài Giảng Trên Núi. Những lời phán dạy của Đức Chúa Giê-su cho họ thấy như Chúa đang nói với họ rằng, Ta biết các ngươi đang ưu tư đến việc chu cấp cho gia đình mình. Các ngươi lo lắng về thức ăn và thức uống mà mình sẽ cần hàng ngày và quần áo mà các ngươi cần để giữ ấm và che thân. Nhưng đây là những gì Ta muốn nói . . .

Đọc Ma-thi-ơ 6:25–33. Điều gì đã được hứa ở đây, và mọi người phải làm gì để nhận được những lời hứa đó?

Nhiều lời hứa của Đức Chúa Trời có các yếu tố của giao ước song phương. Có nghĩa là, để nhận được phước lành, chúng ta cũng cần phải làm tốt phần việc của mình.

Đọc Ê-sai 26:3. Chúng ta được yêu cầu làm gì để có được sự bình an của Đức Chúa Trời?

 

Đọc 1 Giăng 1:9. Đức Chúa Giê-su sẽ làm gì nếu chúng ta thú nhận tội lỗi của mình?

 

Đọc 2 Sử Ký 7:14. Những chữ “nếu” và “thì” trong lời đề nghị của Đức Chúa Trời ở đây là gì?

Tất cả những câu này và nhiều câu khác đề cập đến một thực tế quan trọng là mặc dù Đức Chúa Trời có quyền tối cao, mặc dù Ngài là Đấng Tạo Hóa và là Đấng Quan Phòng của chúng ta, và mặc dù sự cứu rỗi là một món quà của ân điển và không bởi do công đức của chúng ta, nhưng chúng ta vẫn có một vai trò trong cuộc tranh chấp vĩ đại ở đây trên trái đất. Khi sử dụng món quà thiêng liêng là ý chí tự do, sự lựa chọn tự do, chúng ta phải chọn làm theo sự thúc giục của Đức Thánh Linh và vâng theo những gì Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta làm. Mặc dù Đức Chúa Trời ban phước lành và sự sống cho chúng ta, nhưng chúng ta vẫn có thể tự chọn rủa sả và sự chết. Không có gì ngạc nhiên khi Đức Chúa Trời phán, “Vậy, hãy chọn sự sống, hầu cho ngươi và dòng dõi ngươi được sống,” (Phục truyền 30:19).

“Bất cứ khi nào dân sự của Đức Chúa Trời, trong bất kỳ thời kỳ nào trên thế giới, vui vẻ và sẵn lòng thực hiện kế hoạch của Ngài với lòng nhân từ có hệ thống [phần mười] và bằng các món quà và của lễ dâng, họ đã làm lời hứa của Chúa thành thực tế. Họ sẽ thấy rằng sự thịnh vượng theo sau tất cả những lao động của họ một cách tương xứng khi họ tuân theo những đòi hỏi của Ngài. Khi họ thừa nhận những lời tuyên bố của Đức Chúa Trời và tuân theo các yêu cầu của Ngài, tôn vinh Ngài bằng tài sản của họ, thì kho thóc của họ đầy ắp. Nhưng khi họ ăn cắp phần mười và các của dâng của Đức Chúa Trời, họ nhận ra rằng họ không chỉ ăn cắp của Ngài mà còn ăn cắp của chính họ, vì Ngài đã giới hạn các phước lành của Ngài cho họ tương ứng như khi họ giới hạn sự dâng hiến của họ cho Ngài.”—Ellen G. White, Testimonies for the Church, quyển 3, trang 395.

Kinh Thánh nói rất rõ rằng chúng ta được cứu chỉ nhờ đức tin mà thôi, và đó là một món quà của ân điển Đức Chúa Trời. Việc chúng ta tuân theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời là sự đáp lại ân điển của Ngài; việc ấy không mang lại ân điển (nói cho cùng, nếu ân điển do nơi việc làm, thì nó sẽ không phải là ân điển: xem Rô-ma 4:1–4).

Thật vậy, khi nhìn vào giao ước song phương của Đức Chúa Trời với chúng ta, chúng ta có thể thấy cả phước hạnh cũng như trách nhiệm của mình. Bằng cách chúng ta đáp lại với những gì Đức Chúa Trời ban cho mình, chúng ta thiết lập mối quan hệ của mình với Ngài và ở một mức độ cao, chúng ta quyết định số phận của chính mình. Sự vâng lời—phục vụ và trung thành với tình yêu thương—là dấu hiệu đích thực của tư cách môn đồ. Thay vì giải phóng chúng ta khỏi sự vâng lời, nhưng chính đức tin, và chỉ có đức tin, mới khiến chúng ta dự phần vào ân điển của Đấng Christ, giúp chúng ta có thể thực hiện sự vâng phục mà Đức Chúa Trời yêu cầu nơi chúng ta.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN:

  1. Đã có người nói rằng nếu mọi tín đồ Cơ Đốc Phục Lâm đều trung thành hoàn trả phần mười, thì hội thánh của chúng ta sẽ có đủ ngân quĩ để làm tất cả những gì cần làm cho việc truyền bá tin lành. Bạn đang làm gì, về phần mười và của dâng, để giúp hội thánh làm những gì hội thánh Chúa đã được kêu gọi làm?
  2. Tập trung nhiều hơn vào ý tưởng về tầm quan trọng của sự lựa chọn và công việc của chúng ta trong mối quan hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời. Làm thế nào để chúng ta giữ những câu hỏi về việc làm và sự vâng lời (bao gồm cả việc hoàn trả phần mười và trung tín trong trách nhiệm quản lý Chúa giao phó) trước mắt mình nhưng không rơi vào bẫy của chủ nghĩa hợp pháp?
  3. Trong lớp, hãy thảo luận câu hỏi ở cuối bài học ngày Thứ Ba liên quan đến những lúc gặp khó khăn đến ngay cả khi chúng ta trung tín. Làm thế nào để chúng ta hiểu điều này khi nó xảy ra, và làm thế nào để chúng ta không nản lòng nếu nó xảy ra?
Bài Học 1, 31 Tháng 12 — 6 Tháng 1, 2023

Là Thành Viên Của Gia Đình Chúa

CÂU GỐC: “Hãy xem Đức Chúa Cha đã tỏ cho chúng ta sự yêu thương dường nào, mà cho chúng ta được xưng là con cái Đức Chúa Trời” (1 Giăng 3:1).

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Ga-la-ti 3:26, 29; Thi thiên 50:10–12; 1 Sử Ký 29:13, 14; Phi-líp 4:19; 1 Giăng 5:3; Ma-thi-ơ 6:19–21.

Là Cơ Đốc nhân, một đặc điểm đáng tuyệt vời về mối quan hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời, đó là Ngài tin cậy và giao cho chúng ta quản lý các công việc của Ngài trên thế gian. Ngay từ buổi đầu của lịch sử nhân loại, Đức Chúa Trời đã ủy nhiệm rõ ràng cho A-đam và Ê-va chăm sóc một thế giới hoàn mỹ mà Ngài tạo dựng (xem Sáng thế Ký 2:7–9, 15). Từ việc đặt tên cho các loài thú, đến việc giữ Vườn, và làm đầy mặt đất với con cái của họ, Đức Chúa Trời đã cho thấy rằng chúng ta phải làm việc thay mặt Ngài ở đây.

Ngài cũng ban phước cho chúng ta các nguồn tài nguyên, nhưng chúng ta là những người mà Ngài đã giao phó để quản lý chúng, như là những kẻ trông coi và cai quản mọi chi tiêu, dâng hiến và hoàn trả phần mười. Đức Chúa Trời khuyến khích chúng ta sử dụng các nguồn tài nguyên mà Ngài đã ban cho chúng ta cho nhu cầu riêng của chúng ta, cho nhu cầu của người khác và cho sự thăng tiến trong công việc của Ngài. Tưởng khó tin nhưng thật vậy, chúng ta là những người mà Đức Chúa Trời đã giao phó việc nuôi nấng con cái Ngài, xây dựng các công trình của Ngài và giáo dục các thế hệ kế tục.

Trong bài học tuần này, chúng ta sẽ khám phá những đặc ân và trách nhiệm của một thành viên trong gia đình Đức Chúa Trời.

“Ấy là vì cớ đó mà tôi quì gối trước mặt Cha, bởi Cha mà cả nhà trên trời và dưới đất đều được đặt tên” (Ê-phê-sô 3:14, 15). Hình ảnh nào được gợi lên trong câu này, và hy vọng nào được tìm thấy ở đó?

Từ những ngày đầu trong thánh chức của Đức Chúa Giê-su, Ngài phán, “Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như vầy, Lạy Cha chúng tôi ở trên trời, Danh Cha được thánh” (Ma-thi-ơ 6:9). Sau đó, Ngài lặp lại lời cầu nguyện đó với riêng các môn đồ của Ngài (Lu-ca 11:2). Đức Chúa Giê-su bảo chúng ta gọi Cha của Ngài là “Cha chúng tôi ở trên trời”. Khi Đức Chúa Giê-su gặp Ma-ri sau khi Ngài phục sinh, bà muốn ôm lấy Ngài. “Đức Chúa Giê-su phán rằng: Chớ rờ đến ta; vì ta chưa lên cùng Cha! Nhưng hãy đi đến cùng anh em ta, nói rằng ta lên cùng Cha ta và Cha các ngươi, cùng Đức Chúa Trời ta và Đức Chúa Trời các ngươi” (Giăng 20:17).

Bởi vì chúng ta có cùng một Cha với Đức Chúa Giê-su, Ngài là anh của chúng ta, và tất cả chúng ta là anh chị em trong Chúa. Đức Chúa Giê-su trở thành thành viên của gia đình trên đất để chúng ta trở thành thành viên của gia đình trên trời. “Gia đình trên trời và gia đình dưới đất là một.”— Ellen G. White, The Desire of Ages, trang 832.

Đọc Xuất Ê-díp-tô Ký 3:10; Xuất Ê-díp-tô Ký 5:1; và Ga-la-ti 3:26, 29. Những câu này nói gì về cách Đức Chúa Trời liên hệ với chúng ta? Tại sao điều này làm lòng chúng ta phấn khởi?

Trái với quan điểm tạo thế là quan điểm mà chúng ta chỉ là sản phẩm của những quy luật thiên nhiên lạnh lùng, bất cần, Kinh Thánh không chỉ dạy rằng Đức Chúa Trời hiện hữu, mà còn dạy rằng Ngài yêu thương chúng ta và có quan hệ với chúng ta trong tình yêu thương của hình ảnh gia đình mà thường được dùng trong Kinh Thánh để mô tả mối quan hệ đó. Dù Chúa Giê-su gọi dân Y-sơ-ra-ên là “dân Ta,” hay chúng ta là “con của Đức Chúa Trời”, hay gọi Đức Chúa Trời là “Cha của chúng ta”, thì điểm chung vẫn giống nhau: Đức Chúa Trời yêu chúng ta như cách các thành viên trong gia đình phải yêu nhau. Thật là một tin tốt lành giữa một thế giới mà trong nó và tự nó thì đầy tị hiềm!

Hãy tưởng tượng một thế giới mà chúng ta đối xử với mọi người như một gia đình. Làm thế nào chúng ta có thể học cách liên hệ tốt hơn với tất cả mọi người như họ là anh chị em của chúng ta?

Đọc Thi thiên 50:10–12; Thi thiên 24:1; 1 Sử Ký 29:13, 14; và A-ghê 2:8. Thông điệp ở đây là gì và sự thật này có ý nghĩa như thế nào đối với chúng ta và cách chúng ta liên quan đến bất cứ thứ gì mình sở hữu?

Sách 1 Sử Ký, bắt đầu từ chương 17, ghi lại ước muốn của Vua Đa-vít là xây dựng một ngôi nhà cho Đức Chúa Trời. Ông đã chia sẻ mong muốn này với nhà tiên tri Na-than, người đã trả lời vua: “Hãy làm theo điều ở trong lòng vua, vì Đức Chúa Trời ở cùng vua” (1 Sử Ký 17:2). Nhưng đêm đó, lời Chúa đến với Na-than và hướng dẫn ông ta nói với nhà Vua rằng, vì Vua là người của chiến tranh, ông không thể xây dựng nhà của Chúa. Con trai của ông sẽ thay thế làm công việc ấy. Đa-vít hỏi liệu ít nhất ông có thể được vẽ sơ đồ và chuẩn bị vật liệu xây dựng. Khi Đa-vít được Chúa chấp nhận yêu cầu này, ông đã dành phần đời còn lại của mình để tích lũy một lượng khổng lồ đá đẽo, tuyết tùng, sắt, vàng, bạc và đồng thau “không thể so sánh được”. Khi tất cả vật liệu xây cất đã được chuẩn bị và vận chuyển đến địa điểm xây dựng, Đa-vít đã gọi tất cả các nhà lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên đến để làm lễ ca ngợi và cảm tạ.

Trong 1 Sử Ký 29:13, 14, trong lời cầu nguyện trước toàn dân của Vua Đa-vít, ông nói nguồn tài nguyên thật sự của tất cả các vật liệu xây cất mà ông và dân chúng đã dành thời gian và tiền bạc để chuẩn bị. Dĩ nhiên, vua đã nói, trên căn bản, “Chúng con thật sự không thể tự cho là bởi công mình mà có được tất cả những tài nguyên và vật liệu đặc biệt này bởi vì chúng con chỉ hoàn trả lại cho Ngài những thứ đã thuộc về Ngài.”

Điểm quan trọng đối với tất cả chúng ta, dù giàu hay nghèo (nhưng đặc biệt là người giàu), bởi vì Đức Chúa Trời đã tạo ra mọi thứ từ thuở ban đầu (xem Sáng thế Ký 1:1; Giăng 1:3; Thi thiên 33:6, 9), nên Ngài thực sự là sở hữu chủ hợp pháp của tất cả những gì hiện hữu, kể cả bất cứ thứ gì chúng ta sở hữu — bất kể khó khăn thế nào và siêng năng và trung thực chúng ta đã làm việc để có nó. Nếu không nhờ Đức Chúa Trời và ân điển của Ngài, chúng ta sẽ không có gì cả, chúng ta sẽ không là gì cả; trên thực tế, chúng ta thậm chí sẽ không hiện hữu. Vì vậy, chúng ta phải luôn sống với nhận thức rằng cuối cùng, Đức Chúa Trời là sở hữu chủ tất cả mọi thứ, và bằng cách ngợi khen và cảm tạ Ngài vì sự tốt lành của Ngài đối với chúng ta, chúng ta có thể ghi nhớ lẽ thật quan trọng này luôn trong lòng mình.

“Nhưng tôi là ai, và dân sự tôi là gì, mà chúng tôi có sức dâng cách vui lòng như vậy? Vì mọi vật đều do nơi Chúa mà đến; và những vật chúng tôi đã dâng cho Chúa chẳng qua là đã thuộc về Chúa” (1 Sử Ký 29:14). Những nguyên tắc đẹp đẽ nào được thể hiện trong những lời này, và chúng phản ánh thái độ của chúng ta đối với Đức Chúa Trời và thái độ của chúng ta đối với những gì mình có được như thế nào?

Món quà lớn nhất của Đức Chúa Trời dành cho con cái của Ngài là Đức Chúa Giê-su Christ, Đấng mang lại cho chúng ta niềm bình an bởi sự tha thứ, ân điển cho sự sống hàng ngày và sự tăng trưởng thuộc linh, và niềm hy vọng về cuộc sống vĩnh cửu.

“Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời” (Giăng 3:16). “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài” (Giăng 1:12).

Vậy, sự cứu rỗi là món quà nền tảng bởi vì nếu không có món quà này, chúng ta có thể nhận được gì khác từ Đức Chúa Trời mà về lâu dài sẽ thực sự quan trọng? Bất cứ điều gì chúng ta có thể có ở đây, một ngày nào đó chúng ta sẽ chết và ra đi và những người từng nhớ đến chúng ta cũng vậy, và bất cứ điều gì chúng ta làm tốt cũng sẽ bị lãng quên. Bởi thế, trước hết, chúng ta phải luôn giữ ân tứ phúc âm, đó là Đấng Christ và Ngài đã bị đóng đinh (1 Cô-rinh-tô 2:2), ở trung tâm của mọi suy nghĩ của mình.

Tuy nhiên, cùng với sự cứu rỗi, Đức Chúa Trời còn ban cho chúng ta nhiều hơn thế nữa. Đối với những người lo lắng về cơm ăn và áo mặc của họ, Đức Chúa Giê-su đã ban sự an ủi bằng cách nói: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” (Ma-thi-ơ 6:33).

Đọc Thi thiên 23:1, Thi thiên 37:25 và Phi-líp 4:19. Những câu này nói gì về sự chu cấp của Đức Chúa Trời cho những nhu cầu hàng ngày của chúng ta?

Ngoài ra, khi Đức Chúa Giê-su nói với các môn đồ về việc Ngài sẽ rời họ, Ngài hứa ban ân tứ Đức Thánh Linh để an ủi họ. “Nếu các ngươi yêu mến ta, thì giữ gìn các điều răn ta. Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên ủi khác, để ở với các ngươi đời đời, tức là Thần lẽ thật, mà thế gian không thể nhận lãnh được, vì chẳng thấy và chẳng biết Ngài; nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngươi và sẽ ở trong các ngươi” (Giăng 14:15–17). “Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật” (Giăng 16:13).

Sau đó, chính Đức Thánh Linh ban những món quà thiêng liêng đáng kinh ngạc cho con cái của Đức Chúa Trời (xem 1 Cô-rinh-tô 12:4–11).

Nói tóm lại, Đức Chúa Trời mà “Vì tại trong Ngài, chúng ta được sống, động, và có” (Công vụ 17:28), Đức Chúa Trời là Đấng “ban sự sống, hơi sống, muôn vật cho mọi loài” (Công vụ 17:25), đã cho chúng ta sự hiện hữu, lời hứa về sự cứu rỗi, những phước lành vật chất và những món quà tinh thần để trở thành một phước lành cho người khác. Một lần nữa, bất cứ của cải vật chất nào mà chúng ta có, bất cứ món quà hay tài năng nào mà chúng ta được ban cho, chúng ta đều mắc nợ Đấng Ban Cho qua cách chúng ta sử dụng những món quà đó.

Hết thảy chúng ta đều được hưởng những ơn phước và ân tứ thiêng liêng và vật chất mà Chúa ban cho chúng ta. Thật an ủi biết bao khi biết rằng chúng ta là “một phần của gia đình”.

Đọc Phục truyền 6:5 và Ma-thi-ơ 22:37. Điều này có nghĩa là gì, và chúng ta làm như thế nào?

Bạn sẽ yêu mến Đức Chúa Trời “hết lòng, hết linh hồn, hết ý” như thế nào (Ma-thi-ơ 22:37)? Thật thích thú vì Kinh Thánh cho chúng ta câu trả lời và nó chẳng phải là câu trả lời mà hầu hết mọi người tưởng.

Đọc Phục truyền 10:12, 13 và 1 Giăng 5:3. Theo lối nói của Kinh Thánh, phản ứng thích hợp của chúng ta trong mối quan hệ yêu thương với Cha trên trời là gì?

Giữ luật pháp? Tuân theo các điều răn? Thật đáng tiếc, đối với nhiều Cơ đốc nhân, ý tưởng tuân theo luật pháp (đặc biệt là điều răn thứ tư) là tuân thủ cách nghiêm ngặt điều răn, và họ tuyên bố rằng chúng ta được kêu gọi đơn giản là yêu Chúa và yêu người lân cận như chính mình. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời rất rõ ràng: chúng ta bày tỏ tình yêu thương của mình với Đức Chúa Trời và những người lân cận bằng cách vâng theo các điều răn của Ngài.

“Vì nầy là sự yêu mến Đức Chúa Trời, tức là chúng ta vâng giữ điều răn Ngài” (1 Giăng 5:3). Chúng ta cũng đã quen với việc xem xét câu này, chúng ta yêu mến Đức Chúa Trời và do đó, chúng ta tuân giữ các điều răn của Ngài. Tốt rồi. Nhưng có lẽ chúng ta cũng có thể đọc nó là “đây là tình yêu của Đức Chúa Trời”, nghĩa là chúng ta biết và cảm nghiệm tình yêu thương của Đức Chúa Trời bằng cách tuân giữ các điều răn của Ngài.

Trong Ma-thi-ơ 7:21–27, Đức Chúa Giê-su nói rằng những người nghe và làm theo lời của Đức Chúa Trời được ví như một người thợ xây khôn ngoan đã xây nhà trên tảng đá vững chắc. Những người nghe nhưng không làm theo được ví như một người thợ xây ngu ngốc xây nhà trên cát—với kết quả thảm hại. Cả hai đều nghe thấy lời Chúa; một người tuân theo, một người không. Hậu quả của việc làm theo hay không là sự khác biệt giữa sự sống và cái chết.

Hãy suy nghĩ về mối liên hệ giữa việc yêu mến Đức Chúa Trời và tuân theo luật pháp của Ngài. Tại sao tình yêu đối với Đức Chúa Trời lại được bày tỏ theo cách đó? Thật vậy, việc tuân giữ các điều răn bày tỏ tình yêu thương đó là gì? (Gợi ý: hãy nghĩ về nguyên nhân của việc không tuân theo luật pháp của Ngài.)

“Các ngươi chớ chứa của cải ở dưới đất, là nơi có sâu mối, ten rét làm hư, và kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy; nhưng phải chứa của cải ở trên trời, là nơi chẳng có sâu mối, ten rét làm hư, cũng chẳng có kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy. Vì chưng của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó” (Ma-thi-ơ 6:19–21). Đức Chúa Giê-su đang nói một sự thật vô cùng quan trọng nào ở đây?

Ai mà đã chưa từng nghe bao nhiêu câu chuyện về những người đã tích lũy được khối tài sản lớn, rồi chỉ bằng cách nào đó mà đánh mất nó? Thế giới của chúng ta là một nơi rất bất ổn: chiến tranh, tội phạm, bạo lực, thiên tai, bất cứ điều gì có thể ập đến trong chốc lát và lấy đi tất cả những gì chúng ta đã gầy dựng và có lẽ là cả những gì chúng ta đã trung thực và trung thành kiếm được. Hay cũng có khi, trong một khoảnh khắc nào đó, cái chết ập đến, và vì thế những thứ này dù sao cũng trở nên vô dụng đối với chúng ta.

Đúng ra, Kinh Thánh không bao giờ nói với chúng ta rằng giàu có hay tích lũy của cải là sai; thay vào đó, trong các câu này, Đức Chúa Giê-su cảnh báo chúng ta phải có một quan điểm phải lẽ đối với sự giàu có hay tích lũy tài sản.

Như thế, cất giữ kho báu trên trời có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là đặt Đức Chúa Trời và chủ đích của Ngài trên hết trong cuộc sống của bạn, thay vì đặt sự kiếm tiền lên trên hết. Nó còn có nghĩa là sử dụng những gì chúng ta có cho công việc của Đức Chúa Trời, cho sự phát triển của vương quốc của Ngài, cho sự làm việc để giúp người khác và để mình trở thành một phước lành cho người khác.

Thí dụ, khi Đức Chúa Trời gọi Áp-ram, Ngài dự định dùng Áp-ram và gia đình của ông để ban phước cho tất cả các gia đình trên trái đất. Đức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham, “người được gọi là bạn Đức Chúa Trời” (Gia-cơ 2:23), “Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước” (Sáng thế Ký 12:2, 3).

“Ấy vậy, ai tin thì nấy được phước với Áp-ra-ham, là người có lòng tin” (Ga-la-ti 3:9). Chúng ta cũng đương đầu với thử thách như Áp-ra-ham đã trải qua.

“Tiền có giá trị rất lớn, bởi vì nó có thể được sử dụng để làm nhiều việc tốt. Khi tiền được đặt trong tay con cái Chúa, nó có thể là thức ăn cho người nghèo đói, là thức uống cho người khát và là áo mặc cho người trần truồng. Nó có thể được dùng để giải phóng những người bị áp bức, và là phương tiện để giúp đỡ người bệnh. Nhưng tiền sẽ không có giá trị, nếu không được sử dụng nhằm giúp đỡ cho những nhu cầu thiết yếu trong đời sống, và đem lại phước hạnh cho người khác, cũng như phát triển công việc của Đấng Christ”—Ellen G. White, Christ’s Object Lessons, trang 351.

“Vì chưng của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó” (Ma-thi-ơ 6:21). Lòng bạn cho bạn biết kho báu của bạn ở đâu?

“Tấm lòng của Đức Chúa Trời hướng về con cái Ngài ở hạ giới chứa chan một tình yêu mãnh liệt, mạnh hơn cả sự chết, khi sai Con Ngài giáng thế. Đức Thánh Linh đã tuôn đổ mọi ơn phước của thiên đàng cho chúng ta trong Con ấy. Sự sống, sự chết và cầu thay của Đấng Cứu Thế, chức vụ phục dịch của các thiên sứ, sự kêu gọi tha thiết của Đức Thánh Linh, mọi hành động và chăm gìn của Đức Chúa Cha, sự chú ý không ngừng của các Đấng trên thiên đàng—thảy đều nhắm vào mục đích cứu chuộc nhân loại.” —Ellen G. White, Con Đường Giải Thoát, trang 18, Nhà In Tiếng Nói Hy Vọng.

“Nếu bạn tự hạ mình và giao phó đời sống mình cho Đấng Christ, bạn là thành viên trong gia đình của Đức Chúa Trời, và mọi sự trong nhà của Cha là dành cho bạn. Tất cả các kho tàng của Đức Chúa Trời đều được ban cho bạn, cả thế giới hiện tại và thế giới sắp đến. Mục vụ của các thiên sứ, món quà của Thánh Linh Ngài, công việc của các tôi tớ Ngài—tất cả đều thuộc về bạn. Thế giới, với mọi điều trong đó, là của bạn hầu mang lại mọi việc tốt lành.”—Ellen G. White, Thoughts from the Mount of Blessing, trang 110.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN:

  1. Với tất cả những ân tứ tuyệt vời này mà Đức Chúa Trời ban cho con cái Ngài, chúng ta buộc phải hỏi, cũng như tác giả Thi Thiên, “Tôi phải làm gì cho Chúa vì mọi lợi ích Ngài dành cho tôi?” (Thi Thiên 116: 12). Ghi xuống một danh sách các phước lành và ân tứ của Đức Chúa Trời ban cho bạn trong đời sống thiêng liêng và vật chất, và sẵn sàng chia sẻ nó với lớp của bạn. Điều này dạy bạn điều gì về việc bạn thực sự nên biết ơn Chúa như thế nào?
  2. Mặc dù khi nghĩ về Đức Chúa Trời, chúng ta thường nghĩ rằng Ngài chính là Đấng Tạo Hóa, nhưng Kinh Thánh cũng nhiều lần đề cập rằng Ngài chính là Đấng Chu Cấp cho chúng ta. (Xem Hê-bơ-rơ 1:3; Gióp 38:33–37; Thi thiên 135:6, 7; Cô-lô-se 1:17; Công vụ 17:28; 2 Phi-e-rơ 3:7). Ngay cả những thiên hà trong vũ trụ cho đến nhịp đập của con tim chúng ta, cho đến các nguồn lực liên kết các cấu trúc nguyên tử để tạo nên những vật chất đang hiện hữu, thì tất cả đều tồn tại nhờ sự chu cấp và quan phòng của Chúa. Lẽ thật Kinh Thánh này nhắc nhở cho chúng ta như thế nào về nghĩa vụ của mình đối với Đức Chúa Trời, về cách sử dụng hết thảy những gì Ngài đã ban cho? Làm thế nào thực tế này giúp chúng ta gìn giữ cuộc sống và mục đích trong đời sống của mình một cách phù hợp nhất?
  3. Bài học nói về lý do tại sao, trong tất cả những gì Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta, Đức Chúa Giê-su và chương trình cứu rỗi là món quà lớn nhất. Tại sao điều đó đúng? Chúng ta sẽ có gì nếu không có điều đó và niềm hy vọng lớn lao mà nó mang lại cho chúng ta? Một nhà văn theo chủ nghĩa vô thần đã miêu tả con người không là gì khác ngoài “những khối thịt hư thối trên bộ xương rữa nát”. Tại sao, nếu không có ân tứ phúc âm, ông ta sẽ có lý?