2024 - Q1 | THI THIÊN

Bài Học 13, 23 – 29 Tháng 3

Hãy Trông Đợi Đức Giê-Hô-Va

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Thi thiên 27:14; Rô-ma 8:18–25; Thi thiên 131; Ma-thi-ơ 18:3; Thi thiên 126; Thi thiên 92; Mác 16:1–8; 2 Phi-e-rơ 1:19.

CÂU GỐC: “Hãy trông đợi Đức Giê-hô-va; Hãy vững lòng bền chí; Hãy trông đợi Đức Giê-hô-va”. (Thi thiên 27:14).

Đọc Thi thiên 27:14; Thi thiên 37:7, 9, 34; Thi thiên 39:7; Thi thiên 40:1; Thi thiên 69:6; Ga-la-ti 5:5; và Rô-ma 8:18–25. Những câu Kinh Thánh này kêu gọi dân sự Chúa làm điều gì?

Có lẽ một trong những căng thẳng lớn nhất trong đời sống là sự chờ đợi. Chúng ta dầu là ai, sống ở đâu, có địa vị gì trong xã hội, tất cả đều có lúc phải chờ đợi. Từ việc xếp hàng mua vé cho đến việc chờ nghe kết quả chẩn đoán sức khoẻ, chúng ta luôn ở trong trạng thái chờ đợi—điều mà không phải lúc nào chúng ta cũng thích làm.

Vậy còn việc trông đợi Đức Chúa Trời thì sao? Khái niệm chờ đợi Chúa được tìm thấy không chỉ trong Thi thiên mà trong toàn Kinh Thánh. Từ chính ở đây là kiên trì. Lòng kiên trì là sự cam kết tối cao của chúng ta về việc nhất định không để nỗi sợ hãi hay thất vọng khuất phục và khiến chúng ta nghĩ rằng biết đâu Chúa sẽ chẳng giúp đỡ chúng ta. Đứa con tận tụy của Đức Chúa Trời trông đợi vì họ biết chắc rằng Đức Chúa Trời là thành tín, và những ai trông đợi Ngài có thể tin rằng nếu chúng ta giao phó hoàn cảnh mình trong tay Chúa, chúng ta có thể chắc chắn rằng Ngài sẽ giải quyết vấn đề đó cho chúng ta cách hay tốt nhất – ngay cả khi chúng ta không nhất thiết thấy được như vậy.

Trông đợi Đức Chúa Trời là lòng khao khát Chúa sâu xa như cơn khát dữ dội trên mãnh đất khô cằn (Thi thiên 63:1). Tác giả Thi thiên trông đợi nhiều phước lành từ Đức Chúa Trời, nhưng lòng ông ao ước được đến gần Chúa vượt qua mọi ham muốn và nhu cầu khác trong cuộc sống.

Như chúng ta đọc trong Rô-ma, Đức Chúa Trời và toàn thể tạo vật đang chờ đợi sự đổi mới của thế gian và cuộc gặp gỡ đầy phước hạnh của Chúa và dân sự Ngài vào ngày cuối cùng. Phao lô viết: “Thật thế, muôn vật ước ao, nóng nảy mà trông đợi con cái Đức Chúa Trời được tỏ ra” (Rô-ma 8:19).

Thật là một lời hứa đáng kinh ngạc!

Tuy nhiên, trong khi chúng ta chờ đợi sự cứu rỗi cuối cùng và được đoàn tụ với Đức Chúa Trời, ngay cả khi “muôn vật đang rên rỉ và quằn quại đau đớn như người sắp sinh cho đến ngày nay” (Rô-ma 8:22), Chúa vẫn đang ở với dân sự của Ngài, qua Đức Thánh Linh.

Chúng ta được kêu gọi để làm chứng (Công Vụ 1:4–8) về kế hoạch cứu rỗi, là kế hoạch sẽ đạt đến tột đỉnh trong một sự sáng tạo mới. Sự sáng tạo mới, đó chính là điều mà chúng ta đang chờ đợi, là sự làm trọn cuối cùng cho những hy vọng của chúng ta, những người Cơ đốc Phục Lâm —danh xưng Cơ đốc Phục Lâm chứa đựng ý tưởng về niềm hy vọng mà chúng ta đang chờ đợi. Chúng ta chờ đợi, và biết rằng đó không phải là điều vô ích. Cái chết và sự phục sinh của Đấng Christ, trong lần đến lần thứ nhất, là sự bảo đảm cho chúng ta về sự tái lâm của Ngài.

Một số điều hiện bạn đang chờ đợi từ Chúa là gì? Làm thế nào để chúng ta học cách chờ đợi trong đức tin và sự trông cậy, nhất là khi những điều chúng ta đang cầu xin vẫn chưa đến?

Đọc Thi thiên 131. Thi thiên này dạy chúng ta điều gì về mối liên hệ giữa chúng ta và Đức Chúa Trời?

Dân sự Đức Chúa Trời sống trong một thế giới đầy cám dỗ và khó khăn, một thế giới gây khốn đốn cho những người trung tín. Niềm xác tín mới rằng tác giả là con của Chúa và cuộc đời ông phụ thuộc vào Chúa đã an ủi tác giả và khiến ông thú nhận rằng sự kiêu hãnh của mình chẳng có giá trị gì. Tính chất lừa dối của sự tự cao là nó khiến người tự cao quan trọng hóa bản thân, và không thể nhìn xa hơn chính họ. Do đó, kẻ kiêu ngạo bị che mắt không thấy được thực tại cao hơn của Đức Chúa Trời.

Ngược lại, người công bình hướng mắt lên Đức Chúa Trời (Thi thiên 123:1, 2). Việc công nhận sự vĩ đại của Chúa khiến họ trở nên khiêm nhường và thoát khỏi những tư lợi cùng tham vọng hão huyền. Tác giả Thi thiên thú nhận rằng ông không tìm kiếm “việc lớn” và “việc quá cao” (Thi thiên 131:1). Những thành ngữ này mô tả công việc của Đức Chúa Trời trên thế gian vượt quá tầm hiểu biết của con người. Khoa học hiện đại đã cho chúng ta thấy rằng ngay cả những điều “đơn giản nhất” cũng có thể vô cùng phức tạp và vượt xa tầm hiểu biết của chúng ta, ít nhất là ở thời điểm hiện tại. Trên thực tế, có một sự trớ trêu lớn: chúng ta càng tìm hiểu nhiều về thế giới vật lý, thì những bí ẩn xuất hiện trước mắt chúng ta càng lớn.

Trong khi đó, phép ẩn dụ trong Thi thiên 131:2, “như đứa bé dứt sữa bên mẹ mình” là một hình ảnh mạnh mẽ chỉ về một người tìm thấy sự an tịnh và yên lặng trong vòng tay Đức Chúa Trời. Nó diễn tả mối liên hệ thân ái của một đứa trẻ với mẹ nó ở nhiều giai đoạn khác nhau trong cuộc đời trẻ thơ của đứa bé.

Qua việc giúp chúng ta “dứt” những kiêu hãnh và các tham vọng hão huyền, Đức Chúa Trời giới thiệu thức ăn đặc cho sự dinh dưỡng của chúng ta, đó là “làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến, và làm trọn công việc Ngài” (Giăng 4:34; Hê-bơ-rơ 5:12 –14). Lòng tin cậy của trẻ thơ mô tả trong Thi thiên 131 là đức tin trưởng thành, một đức tin đã được thử thách và xét nghiệm qua những khó khăn của cuộc đời và đã tìm thấy Đức Chúa Trời là Đấng thành tín và chân thật với Lời Ngài.

Cuối cùng, tác giả chú ý vào sự thịnh vượng của dân sự Đức Chúa Trời. Chúng ta được kêu gọi xử dụng kinh nghiệm của mình với Chúa để củng cố hội thánh Ngài thêm vững mạnh. Có nghĩa là chúng ta có thể chia xẻ với những người khác – những người vì bất cứ lý do gì, vẫn đang chiến đấu với đức tin của họ – những gì cá nhân chúng ta đã học được về sự thành tín và tốt lành của Đức Chúa Trời. Sự làm chứng của chúng ta về Đấng Christ cũng có thể diễn ra ở ngay trong chính hội thánh, nơi nhiều người cần biết Ngài cho chính bản thân họ.

“Quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không đổi lại và trở nên như đứa trẻ, thì chẳng được vào nước thiên đàng đâu” (Ma-thi-ơ 18:3). Chúa Giê-su muốn nói gì với chúng ta ở đây? Ý tưởng này đòi hỏi điều gì?

Đọc Thi thiên 126. Điều gì mang lại sức mạnh và hy vọng cho dân sự Chúa? Trong bối cảnh này, điều gì đang được nói ở đây, để chúng ta có thể áp dụng vào cuộc sống mình?

Những cuộc giải cứu kỳ diệu trong quá khứ là nguồn cảm hứng vô tận và hy vọng cho tương lai của dân sự Đức Chúa Trời. Sự giải cứu trong quá khứ kỳ diệu đến nỗi có thể được ví như một giấc mơ biến thành sự thật (Ê-sai 29:7, 8). Chúng ta cũng lưu ý rằng trong Thi thiên 126 thế hệ ngợi khen Chúa về những sự giải cứu trong quá khứ cho dân sự Ngài khỏi cảnh phu tù (Thi thiên 126:1) lại hiện đang bị tù đày (Thi thiên 126:4).

Dầu vậy, niềm vui và sự cứu trợ trong quá khứ được sống lại qua các bài hát và được dùng trong kinh nghiệm hiện tại. Các thế hệ mới giữ lịch sử Kinh Thánh tồn tại bằng cách tự cho mình như có mặt trong số những người đã tận mắt chứng kiến các biến cố xưa. Do đó, một đức tin sống động quý trọng những việc làm vĩ đại mà Đức Chúa Trời đã làm cho dân sự Ngài trong quá khứ như thể Ngài đã làm cho chính chúng ta hôm nay.

Thật vậy, ký ức về quá khứ thúc đẩy hy vọng mới cho hiện tại. Hình ảnh “những dòng suối ở miền nam chảy nước lại” (Thi thiên 126:4) là một phép ẩn dụ mạnh mẽ về việc Đức Chúa Trời hành động bất ngờ và hùng dũng thay cho dân Ngài. Miền nam của Giu-đa là một vùng sa mạc khô cằn. Các con suối được hình thành đột ngột và nước ào ạt chảy sau những trận mưa lớn trong mùa mưa. Mưa sớm và mưa trễ đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của một năm nông nghiệp (Phục truyền Luật lệ Ký 11:14; Phục truyền Luật lệ Ký 28:12). Tương tự như vậy, hình ảnh gieo trồng trong nước mắt và gặt hái trong niềm vui (Thi thiên 126:5, 6) là một lời hứa mạnh mẽ về sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời từ một hiện tại khó khăn đến một tương lai hạnh phúc.

Cuối mùa gặt hái là thời điểm những người Do Thái xưa hành hương mang hoa quả đầu mùa đến đền thờ của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem (Xuất Ê-díp-tô Ký 34:22, 26). Chủ đề mùa gặt đã mang một bài học thuộc linh sâu sắc đến với người dân thời bấy giờ. Giống như công việc gieo hạt và chăm sóc ruộng vườn khó nhọc được đền đáp bằng niềm vui của một vụ mùa bội thu, thì những thử thách hiện tại của dân Đức Chúa Trời cũng sẽ được tôn vinh bằng niềm vui được cứu rỗi vào lúc cuối cùng. Hình ảnh mùa gặt bội thu chỉ đến sự khôi phục vương quốc của Ngài trên đất khi Đấng Christ tái lâm (A-mốt 9:13–15; Ma-thi-ơ 9:37). Tuy nhiên, ở đây chủ đề chờ đợi trỗi lên. Cũng như mùa gặt, chúng ta phải chờ xem thành quả của công lao của mình.

Hãy nghĩ về những lúc bạn thấy rõ ràng và không thể nhầm lẫn rằng Đức Chúa Trời đang hành động trong đời bạn, hoặc trong những người khác. Từ những trải nghiệm đó, bạn có thể rút được hy vọng nào cho bất cứ điều gì bạn có thể đang trải qua?

Đọc Thi thiên 92. Hai khía cạnh nào của ngày Sa-bát được làm nổi bật trong bài ca dành cho ngày Sa-bát này?

Sự ngợi khen Đức Chúa Trời về những công việc vĩ đại của tay Ngài (Thi thiên 92:4, 5) và chân dung người công bình giống như vườn Ê-đen (Thi thiên 92:12−14) rõ ràng chỉ ra sự Sáng tạo, khía cạnh đầu tiên mà ngày Sa-bát ghi nhớ. Thi thiên cũng tôn vinh Chúa vì Ngài đã chiến thắng kẻ thù với tư cách là Đức Chúa Trời của công lý (Thi thiên 92:7−15) và do đó củng cố chủ đề thứ hai của ngày Sa-bát—sự cứu chuộc khỏi điều ác (Phục truyền Luật lệ Ký 5:12−15). Do đó, Thi thiên 92 ca ngợi Đức Chúa Trời về sự sáng tạo trong quá khứ và sự duy trì thế gian trong hiện tại của Ngài, đồng thời nó nói đến hy vọng của thời kỳ cuối cùng trong hòa bình và trật tự vĩnh cửu của Đức Chúa Trời.

Dân sự có thể vui hưởng yên nghỉ Sa-bát vì Đức Chúa Trời là “Đấng Chí Cao” (Thi thiên 92:1); địa vị tuyệt đỉnh của Ngài mang lại cho Ngài một lợi thế vô song so với kẻ thù của họ.

Mặc dù Ngài là Đấng Tối Cao, nhưng Chúa sẵn sàng xuống để giải cứu những ai kêu cầu Ngài. Công việc sáng tạo của Chúa và đặc biệt là sự cứu chuộc tạo vật phải là nguồn cảm hứng cho mọi người thờ phượng Chúa và yêu mến Ngài. Thật vậy, sống trong một thế gian sa ngã, không có hy vọng được cứu chuộc, thì chẳng có gì để phải vui mừng. Chúng ta yêu, chúng ta đau khổ, chúng ta chết – và cứ cái vòng lẩn quẩn ấy mà không có bất kỳ hy vọng nào. Thế nên chúng ta ca ngợi Chúa, không chỉ là Đấng Tạo Hóa mà còn là Đấng Cứu Chuộc của chúng ta nữa.

“Dầu mới” nói lên lòng tận tụy mới của tác giả, như đầy tớ được hiến dâng để phục vụ Đức Chúa Trời (Thi thiên 92:10). Việc xức dầu được thực hiện để thánh hiến những người được chọn như thầy tế lễ và vua (Xuất Ê-díp-tô Ký 40:15, 1 Sa-mu-ên 10:1). Tuy nhiên, người viết Thi thiên đã chọn một từ Hê-bơ-rơ khác thường, balal, để mô tả việc xức dầu của ông. Từ này không mô tả việc xức dầu cho các tôi tớ của Đức Chúa Trời mà có nghĩa là “pha trộn” dầu với các phần khác của lễ vật (Xuất Ê-díp-tô Ký 29:2; Lê-vi Ký 2: 4, 5). Tác giả Thi thiên dùng từ balal một cách độc đáo ngụ ý rằng tác giả muốn dâng mình làm của lễ sống cho Chúa và dâng trọn bản thân mình cho Chúa (Rô-ma 12:1).

Không có gì đáng ngạc nhiên khi chúng ta thấy những suy nghĩ về sự thánh hiến trong một bài Thi thiên dành riêng cho ngày Sa-bát, vì ngày Sabát là dấu hiệu chỉ về việc Chúa thánh hóa dân sự Ngài (Xuất Ê-díp-tô Ký 31:13). Hình ảnh cây chà là và cây tuyết tùng của Li-ban (Lebanon) miêu tả dân sự của Đức Chúa Trời đang lớn lên trong đức tin và chân thành tỏ lòng biết ơn đối với các mục đích và tình yêu thương tuyệt vời của Đức Chúa Trời. Ngày Sa-bát là dấu hiệu giao ước đời đời của Chúa với dân Ngài (Ê-xê-chi-ên 20:20). Do đó, việc nghỉ ngơi trong ngày Sa-bát là thiết yếu đối với dân sự Đức Chúa Trời vì nó cho phép họ tin cậy chờ đợi Chúa thực hiện mọi lời hứa trong giao ước của Ngài (Hê-bơ-rơ 4:1–10).

Đọc Thi thiên 92 một lần nữa. Bài Thánh thi này cho chúng ta hy vọng lớn lao nào, và làm sao chúng ta có thể tìm được sự an ủi ngay bây giờ về những điều trong đó?

Đọc Thi thiên 5:3, Thi thiên 30:5, Thi thiên 49:14, Thi thiên 59:16, Thi thiên 92:2, Thi thiên 119:147, 2 Phi-e-rơ 1:19 và Khải huyền 22:16. Lúc nào trong ngày tượng trưng cho thời điểm cứu chuộc thiêng liêng, tại sao?

Trong Thi thiên, lúc rạng đông thường là khoảng thời gian khi sự cứu chuộc của Đức Chúa Trời được trông đợi. Buổi sáng bày tỏ ân huệ của Đức Chúa Trời, chấm dứt đêm dài của tuyệt vọng và đầy lo âu (Thi 130:5, 6). Trong Thi thiên 143, sự giải cứu của Đức Chúa Trời sẽ đảo ngược bóng tối của chết chóc hiện tại (Thi thiên 143:3) thành ánh sáng của một bình minh mới (Thi thiên 143:8); và việc ở trong huyệt sâu (Thi thiên 143:7) trở thành trú ngụ trong “đất bằng thẳng” (Thi thiên 143:10).

Đọc Mác 16:1–8. Điều gì đã xảy ra vào buổi sáng sớm ấy, và tại sao điều đó lại quan trọng đối với chúng ta?

Buổi sáng phục sinh của Đức Chúa Giê-su Christ đã mở lối cho buổi sáng của sự cứu rỗi muôn đời mà Chúa dành cho tất cả những ai tin vào danh Ngài. Các môn đồ của Chúa Giê-su kinh nghiệm được sức mạnh vẹn toàn của lời hứa trong Thi thiên 30:5: “Sự khóc-lóc đến trọ ban đêm, nhưng buổi sáng bèn có sự vui mừng,” khi họ gặp Chúa phục sinh. Chỉ với ân huệ và tình yêu thương vô điều kiện của Đức Chúa Trời mà nước mắt của chúng ta được biến thành tiếng cười (Thi thiên 30:5, 7).

Như sao mai báo hiệu một ngày mới bắt đầu, đức tin cũng báo trước một thực tế mới về sự sống đời đời của con cái Đức Chúa Trời (2 Phi-erơ 1:19). Chúa Giê-su được gọi là sao mai sáng chói (Khải huyền 22:16), là Đấng mà chúng ta háo hức đợi chờ Ngài thiết lập vương quốc, nơi sẽ không còn bóng đêm, điều ác, và sự chết chóc (Khải huyền 22:1-8, 25). Đây là điều mà chúng ta mong đợi trên hết khi nói về sự trông đợi Đức Giê-hô-va. Thật đáng công chúng ta trông chờ.

“Trên ngôi mộ đá mở toang của Giô-sép, Đấng Christ đã tuyên bố trong đắc thắng, ‘Ta là sự sống lại, và sự sống.’ Những lời này chỉ có Chúa mới phán ra đươc. Tất cả tạo vật đều sống theo ý muốn và quyền năng của Đức Chúa Trời. Chúng phụ thuộc vào sự ban tặng sự sống của Ngài. Từ thiên thần cao nhất đến sinh vật khiêm tốn nhất, tất cả đều được nuôi dưỡng từ Nguồn sự sống. Chỉ có Đấng là một với Đức Chúa Trời mới có thể nói, Ta có quyền từ bỏ mạng sống của mình, và Ta có quyền lấy lại. Trong thần tính của Ngài, Đấng Christ sở hữu quyền năng bẻ gãy xiềng xích của sự chết.”—Ellen G. White, The Desire of Ages, tr. 785.

Người ta nói rằng cái chết đã được khắc sâu trong các tế bào của chúng ta khi sinh ra. Tuy đúng ( ít nhất là đối với chúng ta là những con người sa ngã) nhưng sự sống lại của Chúa Giê-su đã hứa với chúng ta điều gì về tính tạm thời của sự chết? Tại sao chúng ta không bao giờ được quên điều ấy (rằng cái chết chỉ là tạm thời)?

NGHIÊN CỨU BỔ TÚC:

Đọc Ellen G. White, “Khôn Lớn Trong Đấng Cơ Đốc,” Con Đường Giải Thoát, trang 57-65 [Bản Việt ngữ], (Steps to Christ, pp. 67-75.)

Thi thiên thốt lên những lời tha thiết kêu gọi chúng ta hãy trông đợi Chúa. “Hãy yên tịnh trước mặt Đức Giê-hô-va, và kiên nhẫn chờ đợi Ngài” (Thi thiên 37:7). Khi chúng ta cảm thấy sự đợi chờ như trở nên nặng nề, bấp bênh và cô đơn, thì chúng ta hãy nhớ đến các môn đồ vào ngày Chúa Giê-su thăng thiên (Công vụ Các sứ đồ1:4–11). Đức Chúa Giê-su đã được cất lên trời trước mắt họ, trong khi họ bị bỏ lại phía sau để chờ đợi một ngày nào đó trong tương lai Ngài sẽ trở lại. Có ai đã bao giờ trải qua một khao khát mãnh liệt hơn các môn đồ ngày hôm ấy xin nhận được phước lành của Đức Chúa Trời? Chắc chắn họ đã mong mỏi: “Chúa ơi, xin đem chúng con đi với Ngài ngay bây giờ”. Tuy nhiên, họ được bảo hãy chờ đợi lời hứa của Chúa Cha và sự trở lại của Chúa Giê-su. Nếu nghĩ rằng các môn đệ chắc đầy tuyệt vọng và chán nản, chúng ta nghĩ sai rồi! Họ trở về Giê-ru-sa-lem và làm đúng như những gì Chúa Giê-su đã nói với họ—họ chờ đợi món quà của Đức Thánh Linh và sau đó rao giảng phúc âm cho thế giới với quyền năng (Công vụ Các sứ đồ 1:12–14, Công vụ Các sứ đồ 2).

Mạng lịnh của Chúa là hãy trông đợi Ngài, thật khó mà thực hiện được trừ khi Ngài làm việc trong chúng ta qua Đức Thánh Linh. Không có sự nhiệt thành nào của con người có thể đứng vững trước sự căng thẳng của việc đợi chờ đè nén trên bản thân yếu đuối của chúng ta. Chỉ có một điều có thể giúp chúng ta chịu đựng được sự căng thẳng, đó là cứ ở trong Chúa Giê-su Christ — nghĩa là có mối liên hệ cá nhân với Ngài. “Như thế Đấng Cơ Đốc ở trong lòng chúng ta, Ngài sẽ khiến chúng ta “vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài” (Phi-líp 2:13). Chúng ta sẽ hành động như chính Ngài hành động. Chúng ta cũng bày tỏ tinh thần như Chúa đã bày tỏ. Bởi đó chúng ta cứ yêu mến Chúa và ở trong Ngài, thì “trong mọi việc chúng ta đều được thêm lên trong Đấng làm đầu, tức là Đấng Cơ Đốc” (Ê-phê-sô 4:15) —Ellen G. White, Con Đường Giải Thoát, tr. 64, 65 [Bản Việt ngữ], (Steps to Christ, p. 75).

Khi tiếp tục trông đợi Chúa, chúng ta sẽ tìm thấy bình an và mãn nguyện trong các bài Thi thiên. Những lời cầu nguyện và bài hát ngợi khen của chúng ta là nơi tâm hồn của Chúa và của chúng ta gặp nhau hàng ngày.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

1. Tại sao chờ đợi là điều quan trọng trong đời sống thiêng liêng của chúng ta? Thảo luận về kinh nghiệm chờ đợi của một số anh hùng đức tin trong Kinh Thánh. Sự chờ đợi đã thanh lọc và củng cố đức tin của họ như thế nào? (Rô-ma 4:19–22; Hê-bơ-rơ 11).

2. Cuối cùng của sự chờ đợi của chúng ta là gì? (Thi thiên 37:34–40). Đó là, chúng ta được hứa gì khi mọi việc cuối cùng sẽ được giải quyết? Chẳng hạn, trong những câu Kinh Thánh này, chúng ta tìm thấy hy vọng gì khi mà công lý đã rất lâu rồi không còn trong cuộc đời này?

3. Tại sao, đối với người chết và những gì đã trải qua với họ (Truyền đạo 9:5), việc chờ đợi Chúa Giê-su của họ gần như đã xong? Chúng ta có thể hy vọng gì từ câu trả lời?

Bài Học 12, 16 – 22 Tháng 3

Thờ Phượng Không Thôi

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Thi thiên 134; Ê-sai 42:10–12; Khải huyền
14:3; Thi thiên 15; Thi thiên 101:1–3; Thi thiên 96; Khải huyền 14:6–12;
Giăng 4:23, 24.

CÂU GỐC: “Hễ tôi sống bao lâu, tôi sẽ hát xướng cho Đức Giê-hô-va bấy lâu; Hễ tôi còn chừng nào, tôi sẽ hát ngợi khen Đức Chúa Trời tôi chừng nấy.” (Thi thiên 104:33).

Đọc Thi thiên 134. Qua đoạn Kinh Thánh này sự thờ phượng được thể hiện ở đâu? Kết quả của việc thờ phượng Chúa là gì?

Thi thiên 134 nhắc lại phước lành của thầy tế lễ A-rôn trong Dân số ký 6:24–26 (cũng là Thi thiên 67:1) và nhấn mạnh phước lành là nguyên tắc cơ bản và kết quả của mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và Y-sơ-ra-ên. Mọi người chúc tụng Chúa trong đền thánh, và Chúa chúc phước cho dân Ngài từ Si-ôn. Các phước lành được ban bố cho mọi sự sống vì Chúa là Đấng Tạo Hóa đã dựng nên trời và đất. Việc nhắc đến Si-ôn là nơi ban các phước lành đặc biệt thiêng liêng nhấn mạnh mối quan hệ giao ước của Chúa với dân của Ngài. Như vậy, trong giao ước ân điển, dân Y-sơ-ra-ên thi hành đặc ân chúc tụng Chúa và được Ngài ban phước.

Đọc Thi thiên 18:1; Thi thiên 36:1; Thi thiên 113:1; Thi thiên 134:1, 2; và Thi thiên 135:1, 2. Những người thờ phượng được miêu tả ở đây như thế nào?

Các Thi thiên thường mô tả những người thờ phượng như những đầy tớ của Chúa. “Người túc trực ban đêm trong nhà Đức Giê-hô-va” (Thi thiên 134:1) có thể ám chỉ đến việc canh giữ ban đêm của người Lê-vi (1 Sử Ký 9:23−27) hoặc lời ngợi khen được dâng lên Đức Chúa Trời cả ngày lẫn đêm bởi người Lê-vi (1 Sử Ký 9:33).

Vì dân Y-sơ-ra-ên thờ phượng Đức Chúa Trời không thể thấy được, là Đấng không thể mô tả bởi bất kỳ hình ảnh nào, nên nơi thánh dùng để phản chiếu vinh quang của Chúa và cung cấp một môi trường an toàn cho những người tội lỗi đến gần vị Vua thánh khiết của họ. Cuộc gặp gỡ này do chính Chúa khởi xướng và được quy định bởi các luật lệ và sắc lệnh của Ngài.

“Hãy đến gần Ngài, là hòn đá sống, bị người ta loại ra, song được chọn và quí trước mặt Đức Chúa Trời, và anh em cũng như đá sống, được xây nên nhà thiêng liêng, làm chức tế lễ thánh, đặng dâng của tế lễ thiêng liêng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ mà đẹp ý Đức Chúa Trời.” (1 Phi-e-rơ 2:4, 5). Những gì chúng ta thấy ở đây, theo lời của Phi-e-rơ, là một cách diễn đạt trong Tân Ước về những ý tưởng được trình bày trong các thánh vịnh này, đó là ý tưởng về dân của Đức Chúa Trời, giờ đây là chức tế lễ thánh, dâng lời ngợi khen và cảm tạ Đức Chúa Giê-su Christ, Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc của họ, vì mọi điều tốt lành mà Ngài đã làm cho họ.

Là những tín đồ thời Tân Ước, chúng ta cũng có vai trò thầy tế lễ, nghĩa là chúng ta được kêu gọi để làm trung gian truyền bá tin lành cho thế giới. Những phương cách hiệu quả nhất chúng ta có thể làm điều này là gì?

 

Đọc Thi thiên 33:3, Thi thiên 40:3, Thi thiên 96:1, Thi thiên 98:1, Thi thiên 144:9 và Thi thiên 149:1. Chủ đề chung trong các câu Kinh Thánh này là gì?

Các Thi thiên kêu gọi mọi người hát một “bài ca mới”. “Bài ca mới” ở đây là gì? Lý do cho “bài ca mới” là sự công nhận mới về uy quyền và quyền tể trị của Chúa trên thế giới và lòng biết ơn đối với sự chăm sóc và cứu rỗi của Ngài vì Ngài là Đấng Tạo Hóa và Quan Xét của thế gian. Sự giải thoát khỏi kẻ thù và khỏi sự chết, và ân huệ đặc biệt của Đức Chúa Trời dành cho dân Y-sơ-ra-ên, là các động lực cá nhân để hát “một bài ca mới”. Trong khi các bài hát khác cũng ca ngợi Chúa về sự nhân từ và kỳ diệu của Ngài, thì “bài hát mới” là một bài hát đặc biệt, bày tỏ niềm vui đã được nhen nhóm và lời hứa về sự hiến dâng tấm lòng mới cho Chúa. Kinh nghiệm mới về sự giải cứu thiêng liêng truyền cảm hứng cho người ta thừa nhận Chúa là Đấng Tạo Hóa và Vua của họ. Các chủ đề quen thuộc trong sách Thi thiên nói về “một bài ca mới” là tin cậy nơi Đức Chúa Trời, ca ngợi công việc kỳ diệu, và sự giải thoát khỏi hoạn nạn, cùng nhiều điều khác của Ngài.

Đọc Ê-sai 42:10–12, Khải huyền 5:9 và Khải huyền 14:3. Chúng ta có thể suy luận gì về “bài ca mới” từ những câu Kinh Thánh này?

Dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời được mô tả một cách trìu mến là “dân ở gần bên Ngài [Đức Chúa Trời]” (Thi thiên 148:14), ngụ ý rằng trong tất cả chương trình Sáng Tạo, Y-sơ-ra-ên có địa vị đặc biệt nhất, do đó có nghĩa vụ và đặc quyền nhất để ngợi khen Chúa. Kinh Thánh khuyến khích các tín đồ thuộc mọi thế hệ hát bài ca mới để ca ngợi Đấng Cứu Chuộc của họ, bài ca mang chứng cớ độc nhất của họ về sự cứu rỗi trong huyết Chiên Con. Một “bài ca mới” có thể mô tả một bài hát mới mẻ mà chưa ai từng nghe trước đây, một bài hát kỷ niệm một kinh nghiệm sống động về ân điển của Đức Chúa Trời trong đời sống của một người. “Bài ca mới” cũng có thể bày tỏ niềm hy vọng, trong trường hợp đó, tính mới của bài hát được thể hiện trong sự mong đợi về trải nghiệm độc đáo, chưa từng có về sự uy nghiêm của Đức Chúa Trời trong tương lai. Sự thờ phượng đích thực không chỉ là của lễ và các của dâng, mà là phản ánh mối quan hệ sống động với Đức Chúa Trời luôn tươi mới và năng động. Theo một nghĩa nào đó, người ta có thể nói đơn giản rằng “bài ca mới” là một cách diễn đạt mới, thậm chí mỗi ngày, về tình yêu thương và lòng biết ơn của chúng ta đối với những gì Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta.

Hãy dựa trên các phước lành của Đức Chúa Trời trong cuộc sống của bạn. Nếu bạn được hát một bài hát mới, nó sẽ là gì?

Đọc Thi thiên 15. Ai là những người xứng đáng được thờ phượng trước mặt Đức Chúa Trời?

Câu trả lời được đưa ra trong bài Thi thiên này là bản tóm tắt các yêu cầu đã được đưa ra trong luật pháp của Đức Chúa Trời và của các vị tiên tri: những người có hành động (“làm việc công bình”) và tính cách (“ở trong lòng”) (xem Phục truyền Luật lệ Ký 6:5, Mi-chê 6:6–8) là sự phản ảnh về Đức Chúa Trời. Đền thánh là một nơi thánh, và mọi thứ trong đó, kể cả các thầy tế lễ, đều được thánh hóa. Như vậy, sự thánh khiết là điều bắt buộc để bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Sự thánh thiện của Y-sơ-ra-ên phải toàn diện, kết hợp sự thờ phượng với đạo đức và được thực hiện trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Luật pháp được ban cho dân của Đức Chúa Trời để giúp họ phát huy hết tiềm năng lớn nhất của mình, tức là sống như một vương quốc của các thầy tế lễ. Chức tế lễ hoàng gia bao gồm một cuộc sống thánh thiện trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời và mang lại các phước lành theo giao ước cho các dân tộc khác.

Đọc Thi thiên 24:3–6 và Thi thiên 101:1–3. Nên thánh nghĩa là gì?

“Lòng trọn vẹn” là đặc tính tốt nhất của người thờ phượng trước mặt Đức Chúa Trời. Trong tiếng Hê-bơ-rơ, chữ này còn có nghĩa là “hoàn hảo”, nói lên khái niệm “sự đầy đủ” và “sự trọn vẹn”. Một cây nho “hoàn hảo” là cây nguyên vẹn, không hư hại và khỏe mạnh (Ê-xê-chi-ên 15:5). Các con vật được dâng làm của lễ phải trọn vẹn hay là không tì vết (Lê-vi Ký 22:21–24). Lời nói “hoàn hảo” là hoàn toàn trung thực (Gióp 36:4). Do đó, một “lòng trọn vẹn” là một “lòng trong sạch” (Thi thiên 24:4) hay một tấm lòng liêm khiết (Thi thiên 15:2). Lòng trọn vẹn tìm kiếm Chúa (Thi thiên 24:6) và được phục hồi nhờ sự tha thứ của Chúa (Thi thiên 51:2–10). Một đời sống không chỗ trách được bắt nguồn từ sự thừa nhận ân điển của Đức Chúa Trời và sự công chính của Ngài. Ân điển thiêng liêng truyền cảm hứng và giúp các tôi tớ của Đức Chúa Trời sống trong sự kính sợ Chúa, có nghĩa là được tự do trong mối tương giao với Đức Chúa Trời và thuận phục Lời Ngài. Lời chứng về một đời sống tận tụy và ngoan đạo mang lại sự ngợi khen cho Đức Chúa Trời chứ không phải cho chính mình. Hãy lưu ý rằng hầu hết các yêu cầu trong Thi thiên 15 đều được đưa ra những từ phủ định (Thi thiên 15:3–5). Đây không phải là để kiếm được ân huệ của Đức Chúa Trời mà là để tránh những điều có thể ngăn cách chúng ta với Đức Chúa Trời.

Làm thế nào chúng ta có thể đưa ra những lựa chọn có ý thức để tránh những điều đẩy chúng ta xa rời Đức Chúa Trời? Một số điều đó là gì, và làm sao chúng ta có thể tránh làm những điều ấy?

Đọc Thi thiên 96. Bài Thi thiên này đề cập đến những khía cạnh đa dạng nào của sự thờ phượng?

Sự thờ phượng bao gồm hát xướng cho Chúa (Thi thiên 96:1, 2), chúc tụng danh Ngài (Thi thiên 96:2), công bố sự tốt lành và vĩ đại của Ngài (Thi thiên 96:3, 4), và mang các lễ vật đến đền thờ của Ngài (Thi thiên 96:8). Ngoài những đặc điểm thờ phượng quen thuộc này, Thi thiên 96 nêu bật một khía cạnh thờ phượng không quá rõ ràng, đó là rao giảng tin lành và nước của Chúa cho các dân tộc khác (Thi thiên 96:2, 3, 10).

Tuy nhiên, ca hát, chúc tụng, dâng lễ vật và công bố phúc âm không phải là những hành động riêng biệt mà là những biểu hiện đa dạng của sự thờ phượng. Việc rao truyền sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho tất cả các dân mới mang lại cốt lõi của sự ca ngợi và sự thỏa lòng trong việc thờ phượng. Hãy lưu ý là lý do của sự thờ phượng phải phù hợp với thông điệp được rao truyền cho các dân tộc khác: “vì Đức Giê-hô-va là vĩ đại” (Thi thiên 96:4), “vì thần của mọi dân tộc đều là thần tượng, nhưng Đức Giê-hô-va đã dựng nên từng trời” (Thi thiên 96:5),“Đức Giê-hô-va trị vì” (Thi thiên 96:10), và “bởi vì Ngài sẽ đến để phán xét thế gian” (Thi thiên 96:13). Do đó, mục tiêu của truyền giáo là hợp nhất các dân tộc khác với dân của Đức Chúa Trời, và cuối cùng là toàn thể tạo vật trong sự thờ phượng Chúa (Thi thiên 96:11-13).

Sự thờ phượng bắt nguồn từ sự nhận biết trong lòng rằng Chúa là ai, Đấng Tạo Hóa, Vua và Quan Án (Thi thiên 96:5,10,13). Do đó, sự thờ phượng liên quan đến việc ghi nhớ những hành động trong quá khứ của Đức Chúa Trời (sự sáng tạo), ca ngợi những điều kỳ diệu hiện tại của Ngài (sự duy trì thế gian và Ngài cai trị thế gian), và dự đoán những công việc sẽ làm trong tương lai của Ngài (sự đoán phạt cuối cùng và một cuộc sống mới trong trời và đất mới).

Sự phán xét trong Thi thiên có nghĩa là Đức Chúa Trời khôi phục lại trật tự hòa bình, công lý và hạnh phúc trong một thế giới hiện đang đè nặng bởi bất công và đau khổ. Do đó, cả địa cầu hân hoan chờ đợi sự phán xét của Đức Chúa Trời (Thi thiên 96:10–13, Thi thiên 98:4–9). Việc Chúa là Quan Án công bình cũng thúc đẩy người ta “run sợ” mà thờ phượng Ngài trong sự thánh khiết và đồng thời cảnh báo họ không được xem nhẹ việc thờ phượng (Thi thiên 96:9). Sự thờ phượng bao hàm cả niềm vui và sự tin tưởng vô cùng (Thi thiên 96:1, 2, 11−13) và lòng kính sợ sự thánh khiết Ngài (Thi thiên 96:4, 9).

Lời kêu gọi phổ quát của Thi thiên 96 về việc phụng thờ Đấng Tạo Hóa và Quan Án cũng đã phản ảnh trong lời công bố phúc âm cuối cùng của Đức Chúa Trời dành cho thế giới, thông điệp của ba thiên sứ trong Khải huyền 14:6–12. Theo nhiều cách, bài Thi thiên này xuất hiện như một sự kết hợp thông điệp về thời kỳ cuối cùng: sự sáng tạo, sự cứu rỗi (“tin lành đời đời”), sự thờ phượng và sự phán xét. Tất cả đều ở đó.

So sánh bài Thi thiên này với thông điệp của ba thiên sứ (Khải huyền 14:6–12). Qua các phương diện nào, bài Thi thiên này dạy những điều có thể thật căn bản giống như thông điệp về ngày cuối cùng mà chúng ta phải công bố cho thế giới?

Đọc Thi thiên 40:6–8, Thi thiên 50:7–23, và Thi thiên 51:16–19. Các câu Kinh Thánh này đề cập đến vấn đề quan trọng nào? Tại sao Đức Chúa Trời không vui lòng về những của lễ mà Ngài đã quy định trong Lời Ngài (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:24)?

Giống như các nhà tiên tri, các tác giả viết các bài Thi thiên lên án những cách lạm dụng việc thờ phượng. Điểm chính của họ trong những câu này không phải là sự ác cảm của Chúa đối với những của lễ và các ngày lễ của Y-sơ-ra-ên mà những lý do cho sự ghê tởm đó chính là khoảng cách đáng sợ giữa sự thờ phượng và tinh thần.

Đức Chúa Trời không quở trách dân Ngài về của lễ và của lễ thiêu nhưng về sự gian ác và những hành vi bất công mà họ đã làm trong đời sống cá nhân (Thi thiên 50:8, 17-21). Các Thi thiên không rao giảng chống lại của lễ hy sinh và thờ phượng nhưng chống lại việc tế lễ vô nghĩa và sự thờ phượng trống rỗng, được thể hiện qua sự bất chính của những người thờ phượng này.

Khi sự đồng nhất giữa những nghi thức bề ngoài và động cơ đúng đắn bề trong của sự thờ phượng không còn nữa, thì các nghi lễ thường trở nên quan trọng hơn là kinh nghiệm thực sự được đến gần Đức Chúa Trời. Nghĩa là, các hình thức thờ phượng tự nó trở thành mục đích thay vì Đức Chúa Trời là mục đích của sự thờ phượng mà những nghi lễ đó lẽ ra phải hướng đến và bày tỏ.

Đọc Giăng 4:23, 24. Điểm nào Đức Chúa Giê-su nói ở đây phù hợp chính xác với điều mà các bài Thi thiên hôm nay đang cảnh báo?

Của lễ hy sinh không thôi là chưa đủ. Những của lễ này có ích lợi gì nếu tấm lòng của những người dâng chúng không tràn đầy sự ăn năn, đức tin và sự buồn rầu vì tội lỗi? Chỉ khi đi kèm với sự ăn năn và tạ ơn chân thành, thì những con bò đực của tế lễ mới có thể làm vui lòng Đức Chúa Trời như “của lễ công bình” (Thi thiên 51:19, xin xem thêm Thi thiên 50:14). Khi trích dẫn Ê-sai, Đức Chúa Giê-su bày tỏ điều đó như thế này: “Dân nầy lấy môi miếng thờ kính ta; Nhưng lòng chúng nó xa ta lắm. Sự chúng nó thờ lạy ta là vô ích, vì chúng nó dạy theo những điều răn mà chỉ bởi người ta đặt ra.” (Ma-thi-ơ 15:8, 9). Những vấn đề mà các tác giả Thi thiên nhìn thấy cũng chính là những vấn đề mà Đức Chúa Giê-su gặp phải với một số người, đặc biệt là những người lãnh đạo, trong thời kỳ Ngài phục vụ trên đất.

Làm thế nào chúng ta có thể chắc chắn rằng chúng ta, với tư cách là những tín đồ Cơ đốc Phục lâm, với tất cả ánh sáng và kiến thức này, không rơi vào cái bẫy nghĩ rằng chỉ cần biết lẽ thật và tuân theo các nghi lễ của lẽ thật là đủ?

NGHIÊN CỨU BỔ TÚC:

Đọc Ellen G. White, “Cách Cầu Nguyện” tr. 39–42, trong phần Lời Kêu Gọi Hãy Đứng Riêng Ra.

Trọng tâm của việc thờ phượng là nhu cầu ăn năn, sự ăn năn thật sự: “Sự ăn năn bao gồm sự đau buồn về tội lỗi và từ bỏ nó. Chúng ta sẽ không từ bỏ tội lỗi trừ khi chúng ta nhìn thấy sự gian ác của nó; cho đến khi lòng chúng ta xây bỏ nó, bằng không sẽ không có sự thay đổi thực sự nào trong cuộc sống.

“Có biết bao người không hiểu bản chất thật của sự ăn năn. Hàng muôn vạn người hối tiếc vì họ đã phạm tội và sẵn sàng cải cách đôi chút thái độ bề ngoài vì họ ngại sự quả báo tàn khốc của tội lỗi mình. Nhưng đó không phải là ăn năn theo như Kinh Thánh dạy. Họ kêu than vì sự thống khổ mình phải chịu chớ không phải vì tội lỗi. Đó là sự đau đớn của Ê-sau khi thấy mình mất quyền trưởng nam vĩnh viễn; là mối kinh hoàng của Ba-laam khi thấy thiên sứ với gươm trần đứng chắn đường mình nên nhận tội lỗi để cứu lấy mạng sống mình chớ không hề có sự ăn năn thật sự, người không hoán cải về mục đích của mình cũng không hề ghê tởm điều ác. Sau khi phản bội Chúa mình, Giu-đa Ích-ca-ri-ốt thưa rằng, “Tôi đã phạm tội vì nộp huyết vô tội” (Ma-thi-ơ 27:4)” — Ellen G. White, Con Đường Giải Thoát, tr. 19, 20 [Bản Việt ngữ] (Steps to Christ, p. 22).

“Mặc dù Đức Chúa Trời không ngự trong các đền thờ do tay người làm ra, nhưng Ngài tôn vinh các cuộc nhóm lại của dân Ngài bằng sự hiện diện của Ngài. Chúa đã hứa rằng khi họ đến với nhau để tìm kiếm Ngài, nhìn nhận tội lỗi của mình và cầu nguyện cho nhau, thì Ngài sẽ gặp họ bởi Thánh Linh của Ngài. Nhưng những ai nhóm lại để thờ phượng Ngài thì phải từ bỏ mọi điều ác. Nếu họ không thờ phượng Ngài trong tinh thần và lẽ thật cùng với vẻ đẹp của sự thánh thiện, thì việc họ đến với nhau sẽ vô ích. Về những người như vậy, Chúa phán: ‘Dân nầy lấy môi miếng thờ kính ta; nhưng lòng chúng nó xa ta lắm. Sự chúng nó thờ lạy ta là vô ích, vì chúng nó dạy theo những điều răn mà chỉ bởi người ta đặt ra. (Ma-thi-ơ 15:8, 9).’ Những ai thờ phượng Đức Chúa Trời phải thờ phượng Ngài ‘bằng tâm thần và lẽ thật: vì Cha ưa thích những kẻ đó thờ phượng Ngài.’ (Giăng 4:23).”—Ellen G. White, Prophets and Kings, tr. 50.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

1. Lễ vật lớn nhất của người thờ phượng dâng lên Đức Chúa Trời là gì (Thi thiên 40:6–10; Rô-ma 12:1, 2)?

2. Sự thờ phượng cá nhân và cộng đồng liên quan nhau như thế nào? Tại sao chúng ta thực sự cần cả hai? Làm thế nào để mỗi sự thờ phượng mang hữu ích cho nhau?

3. Nhiều người hiểu sự thờ phượng chỉ liên quan đến cầu nguyện, hát thánh ca, nghiên cứu Kinh Thánh và các bài học cho đời sống thuộc linh. Mặc dù những hoạt động này là cần thiết cho sự thờ phượng, nhưng việc thờ phượng có phải chỉ giới hạn trong các hoạt động ấy không? Đưa ra một số ví dụ về các hình thức thờ phượng khác.

4. Ellen G. White đã viết: “Đừng bao giờ xem sự hầu việc Chúa là điều buồn nản và mệt mỏi. Sùng bái Đức Chúa Trời và phụng sự Ngài phải là sự vui thỏa.” – Con Đường Giải Thoát, trang 89. Làm thế nào để cho việc phụng sự Chúa trở thành điều vui thỏa?

Bài Học 11, 9 – 15 Tháng 3

Ngóng Trông Đức Chúa Trời Của Si-Ôn

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Thi thiên 84; Khải huyền 21:3; Thi thiên 122; Thi thiên 87; Ga-la-ti 3:28, 29; Ma-thi-ơ 28:18–20; Thi thiên 46; Thi thiên 125.

CÂU GỐC: “Linh hồn tôi mong ước đến đỗi hao mòn về hành lang của Đức Giê-hô-va; Lòng và thịt tôi kêu la về Đức Chúa Trời hằng sống.” (Thi thiên 84:2).

Đọc Thi thiên 84:1–4. Tại sao người viết bài Thi thiên này ao ước được ở trong nơi thánh?

Trong Thi thiên 84, tác giả bài Thi thiên “khao khát” đến đỗi “mệt mỏi hao mòn” biến đền thánh thành nơi ở lâu dài của mình để có thể ở gần Đức Chúa Trời mãi mãi (Thi thiên 84:1, 2). Sự hiện diện của Đức Chúa Trời hằng sống (Thi thiên 84:2) làm cho đền thánh trở thành một nơi độc đáo. Trong nơi thánh, những người thờ phượng có thể “chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Đức Giê-hô-va” (Thi thiên 27:4; cũng xin xem Thi thiên 63:2) và “mãn nguyện với sự tốt lành của nhà Ngài” (Thi thiên 65:4). Trong Thi thiên 84, niềm hạnh phúc vô song đạt được trong mối quan hệ với Đức Chúa Trời, ấy là được ngợi khen Ngài (Thi thiên 84:4), tìm thấy sức mạnh nơi Ngài (Thi thiên 84:5) và trông cậy Ngài (Thi thiên 84:12). Đền thánh là nơi mà mối quan hệ đó được nuôi dưỡng qua sự thờ phượng và thông công với anh em trong Chúa. Sự hiện diện của Đức Chúa Trời hằng sống trong nơi thánh mang đến cho những người thờ phượng một cái nhìn thoáng qua về vương quốc vinh quang của Đức Chúa Trời và nếm được sự sống vĩnh cửu.

Đọc Thi thiên 84:5–12. Ai khác có thể được ban phước bởi đền thánh?

Các phước lành của Đức Chúa Trời được mô tả là tỏa ra từ đền thánh, trước hết ban cho những người phục vụ trong nơi thánh (Thi thiên 84:4), sau đó cho những người hành hương trên đường đến nơi thánh (Thi thiên 84:5-10), và cuối cùng đến tận cùng trái đất. Niềm mong đợi được gặp Chúa trong đền thánh củng cố đức tin của những người hành hương (Thi thiên 84:7). Trong khi sức lực của du khách bình thường yếu đi dưới gánh nặng của cuộc hành trình mệt mỏi, thì với những người hành hương đến đền thánh, sức mạnh của họ tăng lên khi họ đến gần nơi thánh.

Ngay cả khi thân xác đã xa rời khỏi nơi thánh, con cái của Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục mang dấu ấn của nơi thánh bằng cách sống một đời sống xứng đáng (Thi thiên 84:11) vốn là đặc điểm của những người công bình đã bước vào nơi thánh của Chúa (Thi thiên 15:1, 2). Chúa được gọi là “mặt trời”, cho thấy rằng các phước lành từ nơi thánh, giống như những tia nắng, trải dài đến tận cùng trái đất (Thi thiên 84:11). Do đó, những ai ở với Đức Chúa Trời nhờ đức tin sẽ nhận được ân điển của Ngài, bất kể họ ở đâu.

Đọc Khải huyền 21:3. Qua đền thánh dưới đất bày tỏ cho chúng ta niềm hy vọng nào? Bằng cách nào, ngay bây giờ chúng ta có thể tưởng tượng kinh nghiệm này sẽ như thế nào?

Đọc Thi thiên 122:1–5. Cảm xúc của những người thờ phượng khi họ đến Giê-ru-sa-lem là gì? Họ hy vọng tìm thấy gì ở Giê-ru-sa-lem?

Thi thiên 122 diễn tả niềm hân hoan và phấn khởi của những người hành hương khi họ đến Giê-ru-sa-lem. Những cuộc hành hương đến Giêru-sa-lem là những dịp vui mừng khi dân Chúa tham gia ba lần trong năm để tưởng nhớ lòng nhân từ của Đức Chúa Trời đối với họ trong quá khứ và hiện tại (Phục truyền Luật lệ Ký 16:16). Giê-ru-sa-lem là trung tâm của đời sống toàn quốc vì nó chứa đựng “Chứng cớ của Y-sơ-ra-ên” (Thi thiên 122:4) và các ngôi phán xét (Thi thiên 122:5). “Chứng cớ của Y-sơ-ra-ên” đề cập đến đền tạm mà đôi khi được gọi là “đền tạm Chứng cớ” (Dân số Ký 1:50) và chứa “hòm bảng chứng” (Xuất Ê-díp-tô Ký 25:22). Các ngôi phán xét cho thấy hình ảnh của hệ thống tư pháp ở Giê-ru-sa-lem (2 Sa-mu-ên 8:15). Do đó, hành hương là thời gian mà người ta có thể tìm kiếm và đạt được công lý. Lòng trung thành với Chúa và thực thi công lý cho mọi người không bao giờ tách rời.

Đọc Thi thiên 122:6–9. Lời cầu nguyện chính của dân Chúa là gì?

Cầu nguyện cho hòa bình của Giê-ru-sa-lem là cầu xin Đức Chúa Trời ban phước lành cho thành Giê-ru-sa-lem và cư dân của nó; đồng thời sự cầu nguyện liên kết những người thờ phượng, khiến hòa bình lan rộng giữa họ (Thi thiên 122:8). Giê-ru-sa-lem chỉ có thể là thành phố hòa bình nếu hòa bình hiện hữu giữa Đức Chúa Trời và dân Ngài, và giữa chính con cái của Đức Chúa Trời. Do đó, lời cầu nguyện cho hòa bình của Giê-ru-salem chuyển tải lời kêu gọi dân Chúa sống hòa thuận với Chúa và với nhau. Trong hòa bình của Giê-ru-sa-lem, dân chúng sẽ thịnh vượng (Thi thiên 147:12–14).

Đoạn Thi thiên này dạy chúng ta rằng lời cầu nguyện cho sự an lành của cộng đồng đức tin phải là chủ đề chính trong những lời cầu nguyện của con cái Chúa vì chỉ dân sự mạnh mẽ và hiệp nhất của Chúa mới có thể rao truyền tin lành về hòa bình và sự cứu rỗi của Chúa cho thế giới (Giăng 13:34, 35).

Cầu nguyện cho hòa bình của Giê-ru-sa-lem vẫn là một đặc ân và trách nhiệm của các tín đồ vì nó duy trì niềm hy vọng trong thời kỳ cuối cùng về nước hòa bình của Đức Chúa Trời sẽ đến, vương quốc hòa bình sẽ không chỉ bao trùm thành Giê-ru-sa-lem mà cả thế giới (Ê-sai 52:7; Ê-sai 66:12, 13; Khải huyền 21-22).

Những cách thiết thực mà chúng ta có thể cố gắng để đạt được sự hòa hợp giữa vòng chúng ta, là con dân Chúa hiện nay là gì?

Đọc Thi thiên 87:1, 2. Điều gì khiến Si-ôn trở thành một nơi đáng quý?

Thi thiên 87 là một bài thánh ca tôn vinh Si-ôn là thành phố yêu dấu và được Đức Chúa Trời đặc biệt lựa chọn. Nền của đền thờ Đức Chúa Trời là trên núi Si-ôn (Thi thiên 2:6, Thi thiên 15:1). Vào thời kỳ cuối cùng, Si-ôn sẽ vươn lên trên mọi ngọn núi, biểu thị uy quyền tối cao của Chúa trên toàn thế giới (Thi thiên 99:2, Ê-sai 2:2, Mi-chê 4:1). Thi thiên 87 gọi Si-ôn là “núi” để làm nổi bật sự hùng vĩ của nó (Thi thiên 133:3). Đức Chúa Trời yêu thích các cổng của Si-ôn “hơn tất cả các nơi ở của Gia-cốp” (Thi thiên 87:2), bày tỏ sự ưu việt của Si-ôn so với tất cả những nơi khác ở Y-sơ-ra-ên vốn là nơi quy tụ đặc biệt của dân Đức Chúa Trời trong quá khứ, chẳng hạn như Si-lô và Bê-tên. Do đó, bài Thi thiên khẳng định rằng sự thờ phượng thật của Đức Chúa Trời là ở nơi Ngài đã chọn và theo cách Ngài đã định.

Đọc Thi thiên 87:3–7. Những điều vinh quang được nói về Si-ôn là gì?

Vinh quang của Si-ôn thu hút tất cả các quốc gia đến với Đức Chúa Trời, vì vậy biên giới của vương quốc Đức Chúa Trời được mở rộng để bao gồm cả thế giới. Hãy lưu ý rằng Đức Chúa Trời không coi các dân tộc khác là công dân hạng hai, ngay cả khi Si-ôn được miêu tả là nơi sinh ra về mặt thuộc linh của tất cả các dân tộc chấp nhận Chúa là Cứu Chúa của họ.

Việc khai danh vào sổ bộ của các cá nhân được thực hiện theo nơi sinh của họ (Nê-hê-mi 7:5, Lu-ca 2:1–3). Thi thiên ba lần nói rằng các quốc gia được sinh ra ở Si-ôn, nghĩa là Chúa cung cấp cho họ một bản sắc mới và ban cho họ tất cả các đặc quyền của những đứa con được sinh ra hợp pháp của Si-ôn (Thi thiên 87:4–6).

Thi thiên 87 chỉ ra sự cứu rỗi của cả người Do Thái và dân ngoại, và sự hiệp nhất của họ trong một hội thánh nhờ chức vụ cứu chuộc của Đấng Christ (Rô-ma 3:22; Rô-ma 10:12; Ga-la-ti 3:28, 29; Cô-lô-se 3:11). Sự miêu tả về sự thịnh vượng của Si-ôn trong Thi thiên gợi nhớ đến khải tượng của Đa-ni-ên về vương quốc Đức Chúa Trời trở thành một ngọn núi khổng lồ bao trùm cả trái đất (Đa-ni-ên 2:34, 35, 44, 45) và câu chuyện ngụ ngôn của Đức Chúa Giê-su về vương quốc Đức Chúa Trời phát triển thành một cây khổng lồ mà chim trời có thể đến làm tổ (Ma-thi-ơ 13:32).

Sự sẵn sàng tiếp nhận tất cả mọi người của Si-ôn được ứng nghiệm như thế nào trong Đại Mạng Lệnh của hội thánh là rao giảng phúc âm cho mọi dân tộc (Ma-thi-ơ 28:18-20)? Ý tưởng này phù hợp như thế nào với lời kêu gọi rao giảng thông điệp của ba thiên sứ?

Đọc Thi thiên 46:1–7. Thế gian được miêu tả một cách thơ mộng ở đây như thế nào?

Bài Thi thiên này mô tả tỏ tường về thế gian đang trong sự hỗn loạn, và nó được diễn tả với hình ảnh của những thảm họa thiên nhiên với cường độ chưa từng thấy (Thi thiên 46:2, 3). Hình ảnh nước bị khuấy động thường mô tả các quốc gia nổi loạn và nhiều vấn đề khác nhau mà kẻ ác gây ra trên thế giới (Thi thiên 93:3, 4; Thi thiên 124:2–5). Tương tự như vậy, trong Thi thiên 46, hình ảnh thiên tai mô tả thế giới bị kiểm soát bởi các quốc gia đang có chiến tranh dữ dội (Thi thiên 46:6).

Rõ ràng đó là một thế giới không có sự hiểu biết về Đức Chúa Trời bởi vì Đức Chúa Trời ở giữa dân sự Ngài, và nơi nào Đức Chúa Trời ngự trị, hòa bình xuất hiện (Thi thiên 46:4, 5). Tuy nhiên, mặc dù thế giới từ chối Ngài, nhưng Đức Chúa Trời không bỏ rơi thế giới. Đức Chúa Trời hiện diện giữa trần gian bằng cách ở giữa dân Ngài. Nói cách khác, bất kể những điều tồi tệ thế nào xuất hiện, thì sự hiện diện của Đức Chúa Trời vẫn ở đây, trên thế giới và mỗi cá nhân chúng ta có thể nhận được niềm hy vọng và sự khích lệ khi biết lẽ thật nền tảng này.

Chúa là nơi trú ẩn hoàn hảo, là Nguồn hòa bình và an ninh lâu dài của Si-ôn. Cụm từ được dùng ở đây để làm nổi bật sự an toàn của Si-ôn là “cho dầu” hay “mặc dù” trong Thi thiên 46:3. Mặc dù thế giới hỗn loạn, dân Chúa vẫn an toàn. Điều này cho thấy hòa bình không phải là kết quả của việc hoàn toàn không có thử thách mà là món quà Đức Chúa Trời ban cho con cái tin kính của Ngài. Sự tin cậy hoàn toàn vào Đức Chúa Trời có thể khiến con cái Đức Chúa Trời được bình yên và an toàn giữa cơn bão tố (Ma-thi-ơ 8:23–27). Câu hỏi được đặt ra là: Liệu Đức Chúa Trời có để mặc thế gian cho những lựa chọn và hành động hủy diệt của nó mãi mãi không?

Đọc Thi thiên 46:6–11. Phản ứng của Đức Chúa Trời đối với bạo lực và sự hủy diệt trên thế giới là gì?

Những điều ấy không làm Đức Chúa Trời hài lòng đến độ Ngài bày tỏ sự bất bình của Ngài cách mạnh mẽ đến nỗi lời của Ngài, vốn đã dùng để tạo dựng địa cầu, giờ đây lại khiến trái đất tan chảy (Thi thiên 46:6). Tuy nhiên, sự tan chảy không kết thúc bằng sự hủy diệt mà là sự đổi mới. Hãy lưu ý rằng Đức Chúa Trời mở rộng sự bình an của Ngài từ Si-ôn đến tận cùng trái đất. Đức Chúa Trời sẽ chấm dứt chiến tranh và tiêu diệt những công cụ hủy diệt mà các quốc gia độc ác đã sử dụng để mang lại sự áp bức trên thế giới (Thi thiên 46:9). Đây là niềm hy vọng lớn lao mà các Cơ đốc nhân có, sẽ xảy ra khi Đức Chúa Giê-su tái lâm.

Làm thế nào để chúng ta học cách để có được sự bình an và tin cậy Đức Chúa Trời giữa một thế giới thật đầy nhiễu nhương?

Đọc Thi thiên 125:1, 2. Những người tin cậy Đức Chúa Trời được miêu tả như thế nào ở đây?

Những ai tin cậy Chúa được so sánh với núi Si-ôn, biểu tượng của sự kiên định và sức mạnh. Quang cảnh hùng vĩ của những ngọn núi bao quanh thành Giê-ru-sa-lem đã thôi thúc người viết Thi thiên thừa nhận sự bảo vệ chắc chắn của Đức Chúa Trời (Thi thiên 5:12, Thi thiên 32:7, 10). Không giống như những ngọn núi do kẻ ác cai trị đang bị ném xuống biển (Thi thiên 46:2), sự bền vững và uy nghi của ngọn núi mà Giê-ru-sa-lem được xây dựng trên đó truyền cảm hứng cho một sự tin cậy sâu xa. Niềm tin tưởng vào sự bảo vệ của Đức Chúa Trời càng trở nên vững vàng hơn khi đối mặt với thực tế đau đớn mà trong đó cái ác dường như thường xuyên thắng thế. Tuy nhiên, ngay cả giữa sự gian ác đó, dân Đức Chúa Trời vẫn có thể có hy vọng.

Đọc Thi thiên 125:3–5. Người công bình bị cám dỗ như thế nào? Bài học cho chúng ta là gì?

Con cái Đức Chúa Trời có thể nản lòng trước sự thành công của kẻ ác và có lẽ bị cám dỗ đi theo đường lối của chúng (Thi thiên 73:2–13; Thi thiên 94:3). Sự vô cùng vững chắc của Núi Si-ôn không thể bảo đảm an toàn cho những người lìa bỏ Chúa. Dân sự vẫn có sự tự do “đưa tay ra làm điều gian ác” (Thi thiên125:3) và “quay sang con đường cong quẹo” của họ (Thi thiên 125:5). Chúa là công bình và sẽ phán xét những cá nhân vẫn tiếp tục nổi loạn cùng với những tội nhân không có lòng ăn năn khác.

Đây là lời kêu gọi dân sự của Đức Chúa Trời hãy vững vàng trong đức tin và tin cậy nơi Chúa, giống như núi Si-ôn là nơi ẩn náu vững chắc của họ. Đó là, ngay cả khi chúng ta không hiểu mọi thứ, chúng ta vẫn có thể tin tưởng vào lòng nhân từ của Đức Chúa Trời.

“Sự xâm nhập của tội lỗi vào trong thế gian, việc Đấng Cơ Đốc trở nên xác thịt, sự tái sanh, sự sống lại, cùng những vấn đề khác được nêu ra trong Kinh Thánh đều là những sự mầu nhiệm quá sâu xa vượt ngoài khả năng giải thích của con người cũng như khả năng thấu hiểu một cách triệt để. Nhưng dầu không hiểu nổi những sự nhiệm mầu của Chúa, chúng ta cũng không có lý do gì để nghi ngờ lời Ngài cả.…

Ở bất cứ nơi nào cũng đều có những kỳ quan vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta. Vậy khi tìm thấy trong thế giới thiêng liêng cũng có những sự huyền diệu vượt quá trí não mình, ta há nên ngạc nhiên sao? Tất cả những sự phức tạp ấy đều do nơi sự kém cỏi và hẹp hòi của tâm trí con người mà thôi. Trong Kinh Thánh Đức Chúa Trời ban cho chúng ta đủ chứng cớ về bản chất thiêng thượng, ta không nên nghi ngờ lời Chúa chỉ vì Ta không hiểu thấu đáo mọi sự mầu nhiệm của Ngài”—Ellen G. White, Con Đường Giải Thoát, tr. 92, 93 [Bản Việt ngữ] (Steps to Christ, pp. 106, 107.

NGHIÊN CỨU BỔ TÚC: Các bài ca của Si-ôn đã lập một cam kết tuyệt đối để luôn nhớ đến Si-ôn và có niềm hy vọng hằng sống vào sự cai quản tối cao của Đức Chúa Trời mà Si-ôn là biểu tượng. Mặc dù nhiều phước lành trong nơi thánh của Đức Chúa Trời được trải nghiệm trong cuộc sống này, nhưng hy vọng về cuộc sống sung mãn và niềm vui ở Si-ôn vẫn còn ở tương lai. Nhiều con cái của Đức Chúa Trời khao khát Si-ôn trên trời trong nước mắt (Thi thiên 137:1). Nhớ đến Si-ôn không chỉ bao hàm một ý nghĩ ngẫu nhiên, mà là một sự lưu tâm có chủ ý và quyết định sống phù hợp với ký ức hằng sống ấy (Xuất Ê-díp-tô Ký 13:3, Xuất Ê-díp-tô Ký 20:8).

Do đó, việc hát những bài ca của Si-ôn mang theo một quyết tâm nồng nhiệt để duy trì niềm hy vọng về sự phục hồi vương quốc của Đức Chúa Trời trên đất mới (Khải huyền 21:1–5).

“Nơi đó, những tâm hồn bất tử sẽ chiêm ngưỡng với một niềm vui bất tận sự diệu kỳ của quyền năng sáng tạo, sự mầu nhiệm của tình thương cứu chuộc. Không có kẻ thù độc ác phỉnh lừa, cám dỗ để quên Đức Chúa Trời. Mọi năng lực được khai triển, mọi khả năng được gia tăng. Sự đạt được mức hiểu biết không làm tâm trí mệt mỏi hoặc nghị lực bị suy yếu. Nơi đó, năng lực lớn lao nhất được thêm lên, chí hướng cao thượng nhất được đạt đến, nguyện vọng cao cả nhất được thực hiện; và còn phải vượt tới mức cao hơn, chiêm ngưỡng sự lạ lùng mới, hiểu biết lẽ thật mới; những đề tài mới lạ còn cần thêm năng lực của trí tuệ, tâm hồn và thể xác”—Ellen G. White, Thiện Ác Đấu Tranh, tr. 599 [Bản Việt ngữ] (The Great Controversy, p. 677).

Cam kết không quên Si-ôn là một cam kết ngầm của những người hành hương của Chúa, rằng họ sẽ không bao giờ chấp nhận thế giới này là quê hương của mình mà chờ đợi trời mới đất mới.

Do đó, các bài Thi thiên của Si-ôn có thể được hát bởi các tín đồ thuộc mọi thế hệ, những người khao khát được sống trong Giê-ru-sa-lem Mới (Khải huyền 3:12). Các bài ca của Si-ôn khuyến khích chúng ta hy vọng về một thế giới tương lai, nhưng chúng cũng giúp chúng ta trở thành những con người mang ân điển của Đức Chúa Trời đến với thế giới hiện tại này.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

1. Làm thế nào để chúng ta dùng các nguyên tắc thuộc linh và thần học tập trung vào dân của Đức Chúa Trời ở Si-ôn, một địa điểm theo nghĩa đen là Giê-ru-sa-lem, và áp dụng chúng vào hội thánh và sứ mệnh của hội thánh trên thế giới?

2. Ngày nay các tín đồ có thể ở trong đền thánh của Đức Chúa Trời bằng cách nào? (Giăng 1:14–18, Hê-bơ-rơ 12:22–24).

3. Si-ôn sẽ trở thành thành phố của mọi quốc gia như được hình dung trong Thi thiên 87 như thế nào? (Rô-ma 5:10, Ê-phê-sô 2:11–16, Cô-lôse 1:19–23).

4. Bạn trả lời thế nào đối với người chỉ ra thực tế là kẻ ác thịnh vượng trên thế giới này trong khi nhiều người “tốt” phải chịu đau khổ? Bạn nghĩ sao về điều ấy? Tại sao điều quan trọng là phải thừa nhận rằng chúng ta không có câu trả lời đầy đủ cho mọi điều đang xảy ra trên thế giới ngay lúc này?

Bài Học 10, 2 – 8 Tháng 3

Bài Học Từ Quá Khứ

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Thi thiên 78; Thi thiên 105; Ga-la-ti 3:29; Thi thiên 106; Thi thiên 80; Dân số Ký 6:22–27; Thi thiên 135.

CÂU GỐC: “Điều chúng ta đã nghe và biết, Và tổ phụ chúng ta đã thuật lại cho chúng ta. Chúng ta sẽ không giấu các điều ấy cùng con cháu họ, Bèn sẽ thuật lại cho thế hệ mai sau những lời ngợi khen Đức Giê-hô-va, Quyền năng Ngài, và công việc lạ lùng mà Ngài đã làm” (Thi thiên 78:3, 4).


Đọc Thi thiên 78. Ba giai đoạn lịch sử quan trọng nào được nhấn mạnh trong Thi thiên này? A-sáp rút ra những bài học nào qua mỗi gian đoạn?

Khi ôn lại quá khứ của Y-sơ-ra-ên, sự thành tín của Đức Chúa Trời và sự bất tín của Y-sơ-ra-ên sẽ được thấy rõ ràng. Quá trình lịch sử ấy cũng dạy các thế hệ mai sau chớ nên lặp lại những sai lầm của tổ tiên, nhưng phải tin cậy Đức Chúa Trời và trung thành với giao ước Ngài. Tác giả Thi thiên dùng lịch sử như một câu chuyện ngụ ngôn (Thi thiên 78:2), có nghĩa là mọi người nên suy gẫm sâu sắc về thông điệp của Thi thiên và tìm kiếm ý nghĩa cho chính mình. Thi thiên 78:2 là lời mô tả tiên tri về phương pháp dạy dỗ của Chúa Giê-su bằng ngụ ngôn (Ma-thi-ơ 13: 34, 35).

Bài Thi thiên này cũng phản ảnh về hành trình được giải cứu khỏi Ê-díp-tô (Thi 78:9−54), việc định cư tại Ca-na-an (Thi thiên 78: 55−64) và thời của Đa-vít (Thi thiên 78:65−72). Nó cho thấy những việc làm vinh quang của Đức Chúa Trời và hậu quả của việc dân chúng vi phạm giao ước của Ngài. Lịch sử Y-sơ-ra-ên thuật lại nhiều hình thức bất trung của dân sự đối với Đức Chúa Trời, đặc biệt là việc họ thờ hình tượng (Thi thiên 78:58).

Tuy nhiên, tác giả Thi thiên nhấn mạnh về nguyên nhân của sự bất trung của Y-sơ-ra-ên: họ quên những gì Đức Chúa Trời đã làm cho họ, không tin cậy Đức Chúa Trời, thử thách Chúa (Thi thiên 78:18, 41, 56), nổi loạn chống lại Ngài, và thất bại trong việc giữ luật pháp, giao ước và chứng cớ của Ngài (Thi thiên 78:10, 37, 56). Bằng cách nhấn mạnh những hình thức bất trung cụ thể này, tác giả Thi thiên ám chỉ rằng việc chối bỏ Y-sơra-ên trong lịch sử là kết quả của một tội lỗi cốt lõi, đó là sự không tin cậy Chúa (Thi thiên 78:7, 8).

Khi đọc Thi thiên, người ta kinh ngạc trước sự ngoan cố và mù quáng thuộc linh liên tục của con người, trái ngược với sự kiên nhẫn và ân sủng vô biên của Chúa. Sao mà các thế hệ mới lại chậm học các bài học ấy như vậy?

Nhưng trước khi đoán xét quá đáng các thế hệ đã qua, chúng ta hãy xét lại chính mình. Có phải chúng ta cũng đã quên đi những việc làm diệu kỳ của Đức Chúa Trời trong quá khứ và cẩu thả về những điều kiện trong giao ước của Ngài không? Thi thiên không khuyến khích con người ỷ lại vào những việc làm của chính họ. Thay vào đó, Thi thiên 78 cho thấy ý chí của con người là vô dụng trừ khi nó có nền tảng trên sự nhận thức về lòng thành tín của Đức Chúa Trời và chấp nhận ân điển của Ngài. Những trận chiến thất bại của dân sự Đức Chúa Trời (Thi thiên 78:9, 62–64) làm sáng tỏ bài học của Thi thiên rằng những nỗ lực của con người, nếu tách lìa sự trung tín với Đức Chúa Trời sẽ thất bại.

Bạn đã học được bài học gì, hoặc nên học được gì từ những sai lầm trong quá khứ của mình?


Đọc Thi thiên 105. Những sự kiện lịch sử và những bài học nào được nhấn mạnh trong bài Thánh thi này?

Thi thiên 105 nhắc lại những sự kiện quan trọng đã hình thành mối liên hệ giao ước giữa Chúa và dân Y-sơ-ra-ên. Bài thánh thi này tập trung vào giao ước của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham về sự ban Đất Hứa cho Áp-raham và hậu duệ. Lời hứa này, tái xác nhận với Y-sác và Gia-cốp, đã được làm trọn qua Giô-sép, Môi-se, A-rôn, và vào thời kỳ chinh phục Ca-na-an. Thi thiên này mang lại hy vọng cho dân sự Đức Chúa Trời trong mọi thế hệ, bởi vì những công việc kỳ diệu của Đức Chúa Trời trong quá khứ bảo đảm tình yêu không thay đổi của Đức Chúa Trời dành cho dân Ngài trong mọi thời đại (Thi thiên 105:1−5, 7, 8).

Thi thiên 105 giống Thi thiên 78 (xem bài học hôm qua) trong việc làm tỏ tường sự thành tín của Đức Chúa Trời đối với dân sự Ngài trong lịch sử, qua đó để tôn vinh Đức Chúa Trời và thôi thúc lòng trung tín. Tuy nhiên, khác với Thi thiên 78, Thi thiên 105 không đề cập đến những lỗi lầm trong quá khứ của dân sự. Thi thiên này có một mục đích khác.

Trong Thi thiên 105, lịch sử được kể lại qua cuộc đời của các tổ phụ vĩ đại nhất của Y-sơ-ra-ên, cho thấy sự dẫn dắt quan phòng của Đức Chúa Trời và sự kiên nhẫn chịu đựng gian khổ của các tổ phụ. Sự kiên trì và trung thành với Chúa của các tộc trưởng đã được đền đáp xứng đáng. Vì vậy, Thi thiên 105 mời gọi mọi người noi theo đức tin của các tổ phụ và tin cậy chờ đợi sự giải cứu của Đức Chúa Trời trong thời của họ.

Thi thiên 105 có một bài ca ngợi (Thi thiên 105:1–7), cho thấy rằng để thực sự ngợi khen Đức Chúa Trời, dân sự Ngài cần biết các dữ kiện lịch sử của họ. Với lịch sử, đức tin của chúng ta và muôn vàn lý do để ngợi khen Chúa được chứng thực.

Những người thờ phượng Chúa được gọi là dòng dõi của Áp-ra-ham và con cái của Gia-cốp (Thi thiên 105:5), do đó họ được xem như là sự làm trọn lời hứa của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham để biến ông thành một dân tộc vĩ đại (Sáng thế Ký 15:3−6). Tác giả Thi thiên nhấn mạnh sự liên tiếp giữa các tổ phụ và các thế hệ tiếp theo của dân sự Đức Chúa Trời. Người viết Thi thiên nhấn mạnh rằng “Sự phán xét của Ngài ở khắp thế gian” (Thi thiên 105:7), qua đó khuyên răn những người thờ phượng Chúa chớ quên rằng “Đức Chúa Trời chúng ta” cũng là Đức Giê-hô-va Chúa tối cao của toàn nhân loại và rằng lòng nhân từ Ngài trải rộng đến mọi dân tộc (Thi thiên 96:1; 97:1). Rõ ràng đó là lời kêu gọi cho mọi thế hệ hãy trung tín.

Chúng ta, những người Cơ Đốc Phục Lâm, thấy mình có liên hệ gì trong trong dòng dõi này của Áp-ra-ham? (Xem Ga-la-ti 3:29). Chúng ta nên rút ra bài học nào từ lịch sử này?


Đọc Thi thiên 106. Những sự kiện lịch sử và các bài học nào được nhấn mạnh trong Thi thiên này?

Thi thiên 106 cũng gợi lên những biến cố quan trọng trong lịch sử Y-sơra-ên, kể cả cuộc xuất hành khỏi Ê-díp-tô, hành trình trong đồng vắng và cuộc sống ở Ca-na-an. Nó nhấn mạnh những tội lỗi ghê gớm của những bậc tiền bối để đưa đến đỉnh điểm là một thế hệ bị đày ải. Vì vậy, chắc chắn bài Thi thiên được viết khi dân sự ở Ba-by-lôn, hoặc sau khi họ đã trở về quê nhà, và tác giả Thi thiên, được Đức Thánh Linh soi dẫn, đã kể lại cho dân sự Đức Chúa Trời những biến cố lịch sử này và những bài học mà lẽ ra họ phải học được từ đó.

Bài Thi thiên này cũng như những bài Thi thiên khác chỉ ra sự thành tín của Đức Chúa Trời đối với giao ước ân điển của Ngài, qua đó Ngài đã cứu dân Ngài trong quá khứ (Thi thiên 106:45). Nó bày tỏ hy vọng rằng Đức Chúa Trời sẽ lại ban ơn cho dân sự ăn năn của Ngài và quy tụ họ từ khắp các nước (Thi thiên 106:47). Lời cầu xin cho sự giải cứu hiện tại không phải là một điều mơ tưởng hảo huyền, mà là lời cầu nguyện bằng đức tin dựa trên sự giải cứu trong quá khứ của Đức Chúa Trời (Thi thiên 106:1−3) và sự bền vững của lòng thành tín của Chúa với giao ước Ngài đã lập với dân sự Ngài.

Một phần không thể thiếu trong việc dân sự xưng tội và thừa nhận rằng họ chẳng tốt hơn tổ phụ của họ là sự hồi tưởng lại những thất bại lịch sử của Y-sơ-ra-ên ghi chép trong Thi thiên 106. Thế hệ hiện tại chấp nhận họ còn tồi tệ hơn tổ tiên vì họ biết hậu quả của những tội ác của thế hệ trước và cách Đức Chúa Trời đã dùng sự kiên nhẫn và ân điển lớn lao của Ngài để cứu dân sự, nhưng họ cứ cố tình bước đi trong những con đường gian ác của quá khứ. Thế hệ này cũng vậy, dẫu chúng ta ngày nay có sự mặc khải về bản tính và ân điển cứu rỗi của Đức Chúa Trời như được bày tỏ qua Chúa Giê-su và thập giá

Tin lành của Thi thiên 106 là tình yêu thương bền vững của Đức Chúa Trời luôn chiếm ưu thế trên tội lỗi của con người (Thi thiên 106:8−10, 30, 43−46). Vai trò chính của Môi-se và Phi-nê-a trong việc làm nguôi cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời cho thấy tầm quan trọng của việc Đấng Christ cầu thay cho các kẻ tin. Chỉ có kinh nghiệm cá nhân về ân điển của Đức Chúa Trời mới có thể biến đổi một câu chuyện quá khứ thành câu chuyện của chúng ta.

Thi thiên 106:13 viết: “Họ lại mau quên công việc Ngài; Họ đã không chờ đợi lời chỉ giáo của Ngài.” Tại sao chúng ta cũng dễ dàng giống như vậy trong cuộc sống của mình?


Đọc Thi thiên 80. Dân sự Đức Chúa Trời được mô tả như thế nào trong bài Thi thiên này, và họ nài xin hy vọng lớn lao nào?

Y-sơ-ra-ên được miêu tả là một vườn nho mà Đức Chúa Trời đã nhổ khỏi Ai Cập, vùng đất áp bức, và được chở đến Đất Hứa của sự dư dật. Hình ảnh vườn nho truyền đạt sự lựa chọn của Đức Chúa Trời dành cho dân Y-sơ-ra-ên và sự chăm sóc quan phòng của Ngài (đọc Sáng thế Ký 49:11, 12, 22; Phục truyền Luật lệ Ký 7:7-11).

Tuy nhiên, trong Thi thiên 80, vườn nho của Đức Chúa Trời ở dưới cơn thịnh nộ của Ngài (Thi thiên 80:12). Các tiên tri loan báo việc vườn nho bị phá hủy là dấu hiệu của sự phán xét của Đức Chúa Trời vì dàn nho đã bị hư hoại (Ê-sai 5:1−7; Giê-rê-mi 2:21).

Dầu vậy, Thi thiên 80 không suy ngẫm về lý do của sự phán xét. Với ân điển sâu xa của Đức Chúa Trời, tác giả Thi thiên bối rối rằng sao Đức Chúa Trời có thể không hiện diện với dân Ngài trong một thời gian dài như vậy. Sự căng thẳng giữa hai bên, một bên là cơn thịnh nộ và sự phán xét của Đức Chúa Trời, bên kia là ân điển và sự tha thứ của Ngài, khiến tác giả sợ rằng cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời có thể thắng thế và tiêu diệt hoàn toàn dân sự (Thi thiên 80:16).

Đọc Dân số Ký 6:22–27. Lời chúc phước này được Thi thiên 80 dùng ra sao?

Điệp khúc của bài Thi thiên này gợi lại lời hứa với A-rôn về việc Đức Chúa Trời ban phước mãi mãi cho dân Ngài (Dân số Ký 6:22–27). Nó cũng làm nổi bật niềm hy vọng rằng ân điển của Đức Chúa Trời sẽ thắng hơn những nguyên nhân gây ra sự khốn đốn cho dân sự: “Hỡi Đức Chúa Trời, xin hãy phục hồi chúng tôi; Và làm cho mặt Chúa sáng chói, Và chúng tôi sẽ được cứu!” (Thi thiên 80: 3, 7, 19).

Tiếng Hê-bơ-rơ chữ “phục hồi” ở đây bắt nguồn từ một chữ phổ biến có nghĩa là “trở lại”, và nó được dùng nhiều lần trong Kinh Thánh về việc Đức Chúa Trời kêu gọi dân sự Ngài, những người đã đi lạc, trở về với Ngài. Chữ này liên kết chặt chẽ với ý tưởng ăn năn, từ bỏ tội lỗi và trở về với Chúa. “Bấy giờ ta sẽ ban cho chúng nó tấm lòng hay nhận biết rằng ta là Đức Giê-hô-va; Chúng sẽ làm dân Ta, và Ta sẽ làm Đức Chúa Trời chúng nó; vì chúng nó sẽ hết lòng trở về cùng Ta” (Giê-rê-mi 24:7).

Chính bạn đã kinh nghiệm thế nào về sự ăn năn như một lối quay về cùng Đức Chúa Trời?


Đọc Thi thiên 135. Những sự kiện lịch sử nào được nhấn mạnh trong Thi thiên này? Tác giả rút ra bài học nào từ những sự kiện ấy?

Thi thiên 135 kêu gọi dân sự Đức Chúa Trời ngợi khen Ngài vì sự tốt lành và thành tín của Ngài đã được bày tỏ trong sự Sáng Tạo (Thi thiên 135:6, 7) và trong lịch sử cứu rỗi của Y-sơ-ra-ên khi được cứu khỏi Ê-díptô (Thi 135: 8, 9) và trong cuộc chinh phục của Đất Hứa (Thi thiên 135:1012).

Chúa đã bày tỏ ân điển của Ngài bằng cách chọn dân Y-sơ-ra-ên làm cơ nghiệp của Ngài (Thi thiên 135:4). “Cơ nghiệp riêng” nói lên mối liên hệ giao ước đặc biệt giữa Chúa và dân sự Ngài (Phục truyền Luật lệ Ký 7: 6–11; 1 Phi-e-rơ 2: 9, 10). Việc lựa chọn Y-sơ-ra-ên là theo ý muốn tối cao của Đức Chúa Trời, và do đó, Y-sơ-ra-ên không có lý do gì để cảm thấy vượt trội hơn các dân tộc khác. Thi thiên 135: 6, 7 chứng minh rằng các mục đích tối cao của Chúa đối với thế gian không bắt đầu với Y-sơ-ra-ên, mà với sự Sáng Tạo. Do đó, Y-sơ-ra-ên nên khiêm nhường hoàn tất vai trò được giao phó trong mục đích cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho toàn thế gian.

Cao điểm của chuyện thuật lại những việc làm vĩ đại của Đức Chúa Trời thay cho dân Ngài (Thi thiên 135: 8–13) là lời hứa rằng Đức Chúa Trời sẽ “phán xét” dân Ngài và thương xót họ (Thi thiên 135:14). Sự phán xét ở đây là sự minh oan của Đức Chúa Trời cho những người bị áp bức và khốn cùng (Thi thiên 9:4; 7:8; 54:1; Đa-ni-ên 7:22). Lời hứa là Chúa sẽ ủng hộ chính nghĩa của dân Ngài và bảo vệ họ (Phục truyền Luật lệ Ký 32:36). Vì vậy, Thi thiên 135 nhằm mục đích gây cảm hứng cho dân sự Đức Chúa Trời tin cậy nơi Ngài và luôn trung thành với giao ước của họ với Ngài.

Sự thành tín của Chúa đối với dân sự Ngài khiến tác giả khẳng định quyền tối cao độc đáo của Chúa trên thế gian và sự hư không của thần tượng (Thi thiên 135: 15−18). Nhờ cậy vào thần tượng sẽ khiến những người thờ phượng chúng cũng trở nên tuyệt vọng và bất lực như chúng (Thi thiên 135:18). Bài Thánh thi chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời đáng được ngợi khen như là Đấng Tạo Hóa cũng như Đấng Cứu Rỗi của dân sự Ngài. Điều này được truyền đạt một cách tuyệt vời ở điều răn thứ tư trong Mười Điều Răn (Xuất Ê-díp-tô 20:8-11, Phục truyền Luật lệ Ký 5:12-15). Bởi vì quyền năng của Đức Chúa Trời trong sự sáng tạo và lịch sử là vô song trên thế giới, nên con dân của Đức Chúa Trời phải luôn nương cậy Ngài và thờ phượng một mình Ngài. Là Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc của chúng ta, chỉ một mình Ngài nên được tôn thờ, và việc thờ phượng bất cứ thứ gì khác, hoặc bất kỳ ai khác, là thờ hình tượng.

Làm thế nào để chắc chắn rằng chúng ta không có thần tượng trong đời sống của mình? Tại sao việc thờ hình tượng có thể dễ dàng vướng vào hơn chúng ta tưởng?

NGHIÊN CỨU BỔ TÚC: Đọc Công vụ Các sứ đồ 7 và Hê-bơ-rơ 11. Tân Ước nói mục tiêu quan trọng nhất của việc Đức Chúa Trời dẫn dắt dân sự Ngài trong lịch sử là gì?

Các Thi thiên lịch sử là bằng chứng hùng hồn về sự thành tín của Đức Chúa Trời đối với dân sự Ngài. Mỗi sự kiện trong lịch sử của dân Đức Chúa Trời là một bước quan phòng dẫn đến sự hoàn tất lời hứa thiêng liêng của Đấng Cứu Thế trong hình thể con người của Chúa Giê-su Na-xa-rét. Ngay cả những thử thách, lắm lúc gây bối rối cho dân sự Đức Chúa Trời và khiến họ nghĩ rằng Chúa đã bỏ rơi họ, cũng nằm dưới sự kiểm soát tối cao của Chúa và là một phần của sự quan phòng của Ngài vì Ngài là Chúa tối cao của lịch sử. Tác giả Thi thiên trình bày một cách khéo léo sự thật rằng ngay cả sự bất trung của dân sự cũng không thể ngăn cản Đức Chúa Trời giữ lòng thành tín với dân Ngài và làm trọn lời hứa của Ngài. Tuy nhiên, những cá nhân và các nhóm không ăn năn đã bị loại khỏi các phước lành theo giao ước, và hậu quả cho sự xấu xa của họ là lời cảnh cáo sự huỷ diệt đời đời một cuộc sống không có hoặc chống đối Đức Chúa Trời. Thi thiên khuyến khích con cái Chúa luôn luôn giữ hy vọng và tín trung với Ngài. “Chúng ta không có gì phải lo sợ cho tương lai, ngoại trừ chúng ta quên sự dẫn dắt của Chúa, và sự dạy dỗ của Ngài trong lịch sử quá khứ của chúng ta.”—Ellen G. White, Life Sketches of Ellen G. White, tr. 196.

Để có thể can đảm tiến tới, dân sự Đức Chúa Trời cần biết sự thật về lịch sử của họ. Ellen G. White khuyên các tín đồ nên đọc Thi thiên 105 và 106 “ít nhất một lần mỗi tuần”.—Testimonies to Ministers and Gospel Workers, tr. 98.

Lịch sử của dân Đức Chúa Trời chứng minh rằng không có lời hứa nào mà Đức Chúa Trời không làm trọn. Nó bao gồm cả những lời hứa thiêng liêng về sự chăm sóc cá nhân hiện tại và những lời hứa cho tương lai về sự tái lâm của Đấng Christ, là điều sẽ thiết lập vương quốc công lý và hòa bình của Ngài trên đất mới.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

1. Việc ghi nhớ sự dẫn dắt thành tín của Đức Chúa Trời đối với dân Ngài trong lịch sử mang lại những ân phước nào? Quên đi hoặc bỏ qua những bài học trong quá khứ sẽ dẫn đến hậu quả gì? Là một hội thánh được kêu gọi để làm điều tương tự như dân Y-sơ-ra-ên xưa đã được kêu gọi để làm, chúng ta có thể áp dụng nguyên tắc đó cho mình như thế nào?

2. Các Thi thiên khuyến khích chúng ta như thế nào để chúng ta nhận ra sự chăm sóc quan phòng của Đức Chúa Trời trong đời sống mình? (Chúng cũng giúp chúng ta có sự kiên nhẫn và tin cậy vào đường lối tối cao của Ngài, ngay cả khi chúng ta không hiểu thấu tại sao mọi điều lại xảy ra như vậy).

3. Làm thế nào chúng ta có thể khuyến khích việc nghiên cứu lịch sử của dân Đức Chúa Trời nhiều hơn trong các buổi thờ phượng cá nhân và cộng đồng? Làm thế nào chúng ta có thể quyết tâm hơn trong việc kể cho con cái mình về lịch sử gần đây của dân sự Đức Chúa Trời?

Bài Học 9, 24 Tháng 2 – 1 Tháng 3

Phước Thay Đấng Nhân Danh Chúa Mà Đến

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Thi thiên 23; Giăng 10:11–15; Thi thiên 22; Thi thiên 89:27–32; Cô-lô-se 1:16; Thi thiên 2; Hê-bơ-rơ 7:20–28.

CÂU GỐC: “Tảng đá mà thợ xây loại ra, Đã trở nên đá đầu góc nhà. Đây là công việc của Đức Giê-hô-va, Một sự lạ lùng trước mặt chúng tôi”. (Thi thiên 118:22, 23).

Đọc Thi thiên 23; Thi thiên 28:9; Thi thiên 80:1; Thi thiên 78:52, 53; Thi thiên 79:13; và Thi thiên 100:3. Mối liên hệ giữa Chúa và dân của Ngài được mô tả như thế nào trong các câu Kinh Thánh này?

Hình ảnh Đức Giê-hô-va là Đấng chăn chiên và dân Chúa là bầy chiên trong đồng cỏ của Ngài làm nổi bật sự dẫn dắt và chăm sóc của Chúa đối với dân Ngài, cũng như việc họ phụ thuộc vào Ngài đáp ứng mọi nhu cầu cho họ. Hình ảnh này truyền đạt ý niệm về sự gần gũi giữa Đức Chúa Trời và dân sự Ngài vì những người chăn sống với đàn chiên của họ và chăm sóc từng con chiên. Hình ảnh mục vụ cũng nhấn mạnh quyền sở hữu của Đức Chúa Trời đối với đàn chiên của Ngài, được đảm bảo bởi hai mối ràng buộc chặt chẽ: sự sáng tạo (Thi thiên 95:6, 7; Thi thiên 100: 3) và giao ước (Thi thiên 28:9, Hê-bơ-rơ 13:20).

Hình ảnh Đấng chăn chiên thiêng liêng dẫn dắt Giô-sép như bầy chiên (Thi thiên 80:1) có lẽ ám chỉ đến lời chúc phước của Gia-cốp dành cho Giôsép, mô tả Đức Chúa Trời như Đấng chăn dắt dân Y-sơ-ra-ên, do đó gợi lên lời hứa và ơn phước vĩ đại này (Sáng thế Ký 49: 24).

Các vị vua được coi là những người chăn dắt dân của họ (2 Sa-mu-ên 5:2). Tuy nhiên, chỉ có Đức Chúa Trời mới thực sự xứng đáng với danh hiệu này vì hầu hết các vua loài người đã không sống đúng với sự kêu gọi đó. Chỉ có Chúa Giê-su đã sống đúng theo sự kêu gọi ấy, đó là lý do tại sao Ngài được gọi là Người Chăn Hiền Lành.

Đọc Giăng 10:11–15. Đức Chúa Giê-su nói gì về chính Ngài là Người Chăn Hiền Lành?

Mối liên hệ mật thiết giữa Đấng Chăn thiêng liêng và đàn chiên của Ngài được thể hiện qua việc bầy chiên biết rõ tiếng của Đấng Chăn Chiên (Giăng 10:4, 27). Cho đến ngày nay, những người chăn chiên vùng Trung Đông vẫn có thể phân biệt đàn của họ đã trộn lẫn với đàn khác bằng cách đơn giản là gọi chiên của họ – chúng nhận ra tiếng gọi và đi theo người chăn của chúng.

Đôi khi, đàn chiên của Chúa phải chịu lắm điều khó khăn mà người ta xem như đó là dấu hiệu của sự Chúa bất mãn và bỏ rơi họ. Nhưng Người Chăn Hiền Lành không bao giờ bỏ rơi những con chiên lạc của Ngài, mà tìm cách cứu chúng. Đây là hình ảnh mạnh mẽ về mối liên hệ của Đức Chúa Trời với dân Ngài. Ngài sẵn sàng chết thay cho chiên của Ngài (Giăng 10:11, 15) và nghịch lý thay, lại trở thành chiên con của lễ hy sinh (Giăng 1:29). Ngoài ra, Đức Chúa Giê-su xác nhận rằng Ngài sẽ gọi chiên của Ngài trong các chuồng khác và hiệp chúng lại thành một bầy (Giăng 10:16).

Làm sao mỗi ngày chúng ta có thể tận dụng những gì chúng ta được hứa khi có Chúa Giê-su là Đấng Chăn Nhân Từ của chúng ta?

Đọc Thi thiên 22 và Thi thiên 118:22. Đấng Mê-si bị đối xử như thế nào bởi những người Ngài đến để cứu ?

Nhiều bài Thi thiên diễn tả cảm giác đau đớn tột cùng của Đấng Cứu Thế vì cảm thấy bị từ bỏ khi chịu thương khó (ví dụ Thi thiên 42, Thi thiên 88, Thi thiên 102). Thi thiên 22 là lời tiên tri trực tiếp về Đấng Mê-si vì nhiều chi tiết trong Thi thiên này không liên quan đến lịch sử của Vua Đavít nhưng hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh về cái chết của Đấng Christ. Đức Chúa Giê-su cầu nguyện bằng những lời của Thi thiên 22:1 trên thập giá (Ma-thi-ơ 27:46).

Nỗi dày vò về sự xa cách của Đấng Christ với Cha Ngài, vì Đấng Christ gánh tội lỗi của cả thế gian, chỉ có thể được đo lường bằng mức độ gần gũi của Cha và Con, cụ thể là sự hiệp một vô song của Chúa Cha và Chúa Con (Giăng 1:1, 2; Giăng 10:30). Những đớn đau dầu sâu thẳm đến đâu cũng không thể phá vỡ sự hiệp một giữa Chúa Cha và Chúa Con. Trong việc bị từ bỏ hoàn toàn của mình, Đấng Christ phó thác vô điều kiện chính Ngài cho Chúa Cha, bất chấp những vực thẳm tuyệt vọng mà Ngài phải đối mặt.

“Đấng Christ là người thay thế và bảo đảm cho tội lỗi của tất cả chúng ta. Ngài bị coi là kẻ phạm tội, để Ngài có thể cứu chuộc chúng ta khỏi sự kết án của luật pháp. Tấm lòng Ngài đang trĩu nặng vì tội lỗi của mọi hậu duệ của A-đam. Cơn thịnh nộ của Thượng Đế đối với tội lỗi, biểu hiện khủng khiếp về sự không hài lòng của Ngài vì sự gian ác, đã khiến tâm hồn Con Ngài kinh hoàng.”—Ellen G. White, The Desire of Ages, p. 753.

Hình ảnh những con thú gầm gừ đe doạ chẳng hạn như những con bò đực mạnh mẽ, sư tử gầm hét, và bầy chó hung hăng làm nổi bật sự tàn ác và thù hận của con người mà Đấng Christ – Đấng được sánh với một con sâu vô hại và bất lực – phải đối mặt trong những giờ phút cuối cùng của Ngài. Với độ chính xác đáng kinh ngạc, Thi thiên 22 truyền đạt những nhận xét cay độc của đám đông chế nhạo Chúa Giê-su bằng chính lời Ngài nói với Cha (Thi thiên 22:1, 8; Ma-thi-ơ 27:43) và những tên lính chia áo của Chúa Giê-su (Thi thiên 22:18, Ma-thi-ơ 27:35). Lúc đó dân chúng đâu hiểu được rằng “con sâu” mà họ tìm cách nghiền nát sẽ trở thành “đá góc nhà” của Đền thờ và bảo vệ nền của nó (Thi thiên 118:22).

Tuy nhiên, Đấng Mê-si bị chối bỏ đã trở thành Nguồn cứu rỗi cho dân Đức Chúa Trời sau khi Ngài sống lại từ cõi chết (Ma-thi-ơ 21:42, Công vụ 4:10-12). Đấng Christ đã chịu sự chối bỏ của nhân loại, nhưng Đức Chúa Trời đã tôn vinh Con Ngài bằng cách đặt Ngài làm “đá góc nhà” sống động của Đền thờ thuộc linh của Đức Chúa Trời (Ê-phê-sô 2:20−22, 1 Phi-e-rơ 2:4−8). Đối với những người từ chối Hòn đá này, phương tiện cứu rỗi của Đức Chúa Trời, Hòn đá ấy sẽ trở thành tác nhân phán xét (Ê-sai 8:14, Mathi-ơ 21:44).

Đức Chúa Giê-su trên thập tự giá đã tự mình trả giá phạt cho mọi tội lỗi mà bạn đã từng phạm. Việc Ngài chịu đau đớn vì bạn sẽ ảnh hưởng như thế nào đến cách bạn sống hiện tại – lý do tại sao bạn nên ghê tởm tội lỗi?

Đọc Thi thiên 89:27–32, 38–46 và Thi thiên 132:10–12. Giao ước lập cùng Đa-vít nói về điều gì? Chuyện gì xem ra gây nguy hiểm cho giao ước?

Trong Giao ước lập cùng Đa-vít có lời hứa của Đức Chúa Trời về sự giúp đỡ đời đời cho dòng dõi Đa-vít và sự thịnh vượng của dân Ngài (1 Sa-mu-ên 7:5–16; Thi thiên 89:1–4, 19–37; Thi thiên 132:12–18). Sự trường tồn của giao ước được thiết lập trên lời hứa trang nghiêm của Đức Chúa Trời và lòng trung tín của vua đối với Ngài. Tuy nhiên, ngay cả những vị vua tận tụy, chẳng hạn như vua Đa-vít, không phải lúc nào cũng trung tín với Chúa. Thi thiên 89 than thở về thực tế phủ phàng như muốn nói lên rằng những lời hứa chắn chắn của giao ước Đa-vít đã mất rồi. Có phải Y-sơ-ra-ên bị Đức Chúa Trời bỏ rơi không còn hy vọng gì nữa? Câu trả lời, dĩ nhiên là không!

Đúng vậy, cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời là một biểu hiện của sự phán xét thiêng liêng của Ngài (Thi thiên 38:1; Thi thiên 74:1). Nhưng cơn giận của Ngài không kéo dài đến muôn đời, vì Ngài, với tình yêu vĩnh cửu, tha thứ tội lỗi của con người khi con người ăn năn. Tuy nhiên, khi việc ấy xảy ra, sự bất mãn của Đức Chúa Trời đối với dân sự sai lầm của Ngài là rất nghiêm trọng. Dân chúng cảm thấy hậu quả cay đắng của sự bất tuân và nhận ra mức độ nghiêm trọng của tội lỗi mình (Thi thiên 89:38–46). Nhưng họ vẫn hỏi, “Bao lâu?” vì họ muốn khẩn cầu cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời chóng qua (Thi thiên 89:46). Hy vọng được đổi mới bắt nguồn từ sự cam đoan mới về sự thành tín của Đức Chúa Trời để “nhớ lại” ân điển của Ngài (Thi thiên 89:47, 50).

Tóm lại, mặc dù thành phần người của giao ước thất bại, nhưng dân sự vẫn có thể yên lòng trong lời hứa của Đức Chúa Trời rằng các mục đích Ngài về Đấng Mê-si — Đấng hiện thân cho mọi điều công chính và cũng là sự cứu rỗi của Y-sơ-ra-ên và của cả thế gian — không hề thay đổi. Đó có nghĩa là cuối cùng, Đức Chúa Trời sẽ chiến thắng, và vương quốc vĩnh cửu của Ngài sẽ được thiết lập mãi mãi— chỉ vì Chúa Giê-su, chứ không phải vì dân sự Đức Chúa Trời.

Chúa Giê-su Christ là Con của Đa-vít và là Đấng Mê-si (Ma-thi-ơ 1:1, Hê-bơ-rơ 1:8). Ngài được gọi là “con đầu lòng của mọi tạo vật”(Cô-lô-se 1:15), ám chỉ Thi thiên 89:27 gọi Đa-vít, người tượng trưng cho Đấng Christ, là con đầu lòng của Đức Chúa Trời. “Ta cũng sẽ làm người thành con trưởng nam ta, Vua cao hơn hết các vua trên đất”.

Rõ ràng tước hiệu “con đầu lòng” không nói lên tình trạng sinh học của Đa-vít, vì Đa-vít là con thứ tám trong gia đình (1 Sa-mu-ên 16:10, 11). Cũng vậy với Chúa Giê-su. Danh hiệu này biểu thị sự vinh dự và uy quyền đặc biệt của Ngài (Cô-lô-se 1:16, 20−22). Đức Chúa Trời đã lập Chúa Giêsu làm Vua tối cao trên toàn thế gian khi Ngài khiến Chúa Giê-su từ người chết sống lại (Công vụ 2:30, 31).

Đọc Cô-lô-se 1:16, 20–22. Chúng ta học được gì qua những câu Kinh Thánh này về Chúa Giê-su là ai và Ngài đã làm gì cho chúng ta? Bạn có thể rút ra lời hứa nào cho chính mình?

Đọc Thi thiên 2; Thi thiên 110:1–3; Thi thiên 89:4, 13–17; và Thi thiên 110:5, 6. Những câu này dạy chúng ta điều gì về Đấng Christ là Vua?

Việc miêu tả Đức Chúa Trời là Cha của Đấng Mê-si chỉ về lễ đăng quang của vua khi vua được chấp nhận vào giao ước của Đức Chúa Trời (Thi thiên 2:7; Thi thiên 89:26–28). Thi thiên 2:7 báo trước sự phục sinh và sự cao trọng của Đấng Christ như là khởi đầu của một giao ước mới đời đời và chức thầy tế lễ thượng phẩm của Đấng Christ (Công vụ 13:33–39; Hê-bơ-rơ 1:5, Hê-bơ-rơ 5:5). Đấng Mê-si ngồi bên hữu Đức Chúa Trời như một người đầy vinh dự và uy quyền chưa từng thấy (Thi thiên 110:1; Công vụ 7:55, 56). “Hơn nữa, sự tương tác giữa Đức Giê-hô-va và ‘đấng được xức dầu’ (Đấng Mê-si) cũng là sự cố ý muốn xác định rằng Đấng Mê-si thuộc dòng dõi Đa-vít này chính là Chúa. . . . Nếu người ngồi bên phải là Chúa, thì Chúa là Đấng Mê-si, vì Đấng Mê-si được thấy ngồi bên phải .]”—Jacques Doukhan, On the Way to Emmaus (Clarksville, MD: Lederer Books, 2012), tr. 26, 27.

Đấng Christ cuối cùng sẽ chiến thắng tuyệt đối kẻ thù nghịch của Ngài. Biến kẻ thù thành “bệ đỡ chân” là một lối mô tả phản ảnh phong tục của các vị vua Cận Đông thời xưa: đặt chân lên cổ kẻ thù bại trận để thể hiện sự thống trị hoàn toàn trên họ. Tuy nhiên, cây phủ việt (cây gậy/cây trượng) của Đấng Christ ở đây không phải là một công cụ khủng bố (Thi thiên 2:9, Thi thiên 110:2).

Ban đầu cây trượng được thủ lĩnh các bộ lạc cầm như là biểu tượng của bộ lạc (Dân số Ký 17:2−10). Cây trượng của Đấng Christ đến từ Si-ôn vì Ngài đại diện cho dân của Si-ôn. Cây trượng của Ngài là biểu tượng của sự phán xét thiêng liêng, kết thúc sự cai trị của điều ác, và mô tả triều đại vô song của Đấng Christ (Khải huyền 2:27; 12:5). Ngay cả những vị vua độc ác cũng có cơ hội ăn năn và phục tùng Đấng Mê-si (Thi thiên 2:10-12).

Một bức tranh mô tả chiến thắng cuối cùng của Đấng Christ được thấy trong quang cảnh nước đời đời trong Đa-ni-ên 7, cho biết rằng, sau khi sự xét đoán đã “ban cho các thánh của Đấng Rất Cao” (Đa-ni-ên 7:22), Vương quốc của Ngài được thiết lập, và “Nước Ngài là Nước đời đời”(Đa-ni 7:27). Nhờ thập giá, lời hứa về nước Ngài được đảm bảo.

Ơn phước được hứa cho tất cả những ai tin cậy nơi Vua, và dân chúng vui mừng trong triều đại công chính và quyền uy của Đấng Mê-si (Thi thiên 2:12, Thi thiên 89:15–17).

Chúng ta biết rằng cuối cùng điều thiện sẽ thắng điều ác, công lý sẽ được thực thi, và sự đau đớn thống khổ sẽ mãi mãi bị khuất phục. Lẽ thật này an ủi chúng ta ra sao khi, với cái nhìn của loài người, điều ác dường như được thịnh vượng?

Đọc Thi thiên 110:4–7. Chức vụ tế lễ của Đấng Christ độc đáo như thế nào, và chức vụ từ trời này cho chúng ta hy vọng lớn nào?

Đức Chúa Trời ban cho Đấng Mê-si vương quyền đời đời (Thi thiên 110:1–3) và chức thầy tế lễ thượng phẩm, dòng Mên-chi-xê-đéc (Thi thiên 110:4–7). Chúa đóng ấn lời Ngài bằng một lời hứa long trọng (Hê-bơ-rơ 6:18). Lời thề của Đức Chúa Trời hứa luôn ban cho chúng ta một Thầy Tế Lễ hoàn hảo là dấu hiệu của ân điển Ngài. Tội lỗi của dân sự và những cuộc nổi loạn công khai thường xuyên khiêu khích Đức Chúa Trời hãy từ bỏ dân Ngài, nhưng lời thề của Đức Chúa Trời không hề thay đổi và đó cũng là sự cam đoan về ân điển của Ngài dành cho những ai biết ăn năn (Xuất Ê-díp-tô Ký 32:14, Thi thiên 106:45).

Lời thề thiêng liêng giới thiệu một yếu tố mới cho giao ước Đa-vít bằng cách tuyên bố rằng Vua Mê-si cũng là một Thầy tế lễ (Thi thiên 110:4). Các vua Y-sơ-ra-ên không bao giờ có thể phục vụ như thầy tế lễ Lê-vi (Dân số Ký 8:19; 2 Sử ký 26:16−21). Khi Kinh Thánh đề cập đến các vị vua hoặc dân chúng dâng của lễ, điều đó có nghĩa là họ mang của lễ đến cho các thầy tế lễ — những người có phận sự dâng của lễ. Thi thiên 110 phân biệt Vua Mê-si với các vị vua và thầy tế lễ khác của Y-sơ-ra-ên. Chức thầy tế lễ đời đời của Đấng Christ bắt nguồn từ Mên-chi-xê-đéc, người vừa là vua của Sa-lem (Giê-ru-sa-lem) vừa là thầy tế lễ của “Đức Chúa Trời Tối Cao” (Sáng thế Ký 14:18−20). Cựu Ước không bao giờ nói về vua Đa-vít hay bất kỳ vị vua Y-sơ-ra-ên nào khác là người sở hữu chức vụ tế lễ theo dòng Mên-chi-xêđéc, ngoại trừ Thi thiên 110. Rõ ràng, Thi thiên đặc biệt nói về một vị vua và cũng là thấy tế lễ trong lịch sử Y-sơ-ra-ên.

Đọc Hê-bơ-rơ 7:20–28. Chức vụ tế lễ thượng phẩm của Đấng Christ có những ngụ ý gì?

Vừa là Vua thiêng liêng vừa là Thầy tế lễ đời đời, Đấng Christ là cao trọng hơn tất cả mọi thầy tế lễ và vua chúa loài người; vì vậy, chúng ta có hy vọng. Đấng Christ duy trì một giao ước cao cả dựa trên lời hứa của Đức Chúa Trời, chứ không phải lời hứa của con người. Ngài phục vụ trong nơi thánh trên trời, chức vụ tế lễ của Ngài không bị ảnh hưởng bởi tội lỗi hay sự chết, như các thầy tế lễ loài người, và do đó, Ngài có thể cầu thay và cứu chuộc dân Ngài mãi mãi. Công việc hòa giải của Đấng Christ với tư cách là Thầy Tế lễ hoàn hảo và đầy lòng trắc ẩn mang lại cho dân Ngài sự bảo đảm vững bền về việc được ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 6:19, 20). Chức vụ tế lễ vương giả của Đấng Christ sẽ xóa bỏ sự thống trị của ma quỷ, không chỉ trong lòng dân sự Ngài mà còn trên cả thế gian. Ngài sẽ giữ lời hứa trong Thi thiên 2 rằng mọi dân tộc và người cai trị sẽ phải chịu sự phán xét của Vua là Chúa Giê-su Christ (Thi thiên 2:6–9; Thi thiên 110:1, 2, 5, 6). Chức vụ tế lễ và Vua vinh hiển của Đức Chúa Giê-su đòi hỏi sự vâng phục và tin cậy tuyệt đối của chúng ta.

NGHIÊN CỨU BỔ TÚC:

Đọc Ellen G. White, “God With Us,” trang 19–26, trong The Desire of Ages.

Thi thiên vừa là lời cầu nguyện của Đấng Christ và cũng là lời cầu nguyện về Đấng Christ. Các bài Thánh thi cung cấp một sự mặc khải độc đáo về thân vị và chức vụ cứu chuộc của Đấng Christ, Đấng “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” (Ma-thi-ơ 1:23). Đức Chúa Giê-su là “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” trong những lời cầu nguyện khẩn thiết về sự bị từ bỏ và đau đớn. Ngài là “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” trong tiếng kêu đòi công lý và giải thoát. Ngài là “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” bằng cách không bỏ mặc chúng ta trong sự lạc lối và tuyệt vọng, nhưng chỉ cho chúng ta con đường chiến thắng của đức tin. Đối với chúng ta, Ngài đã trở thành Thầy Tế lễ và Vua vĩnh hằng để cứu chúng ta khỏi sự diệt vong đời đời của tội lỗi. Trong Đấng Christ, vị Vua Đa-vít hoàn hảo, mọi lời hứa long trọng về sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời đều được ứng nghiệm (2 Cô-rinh-tô 1:20).

Ellen G. White mô tả một cách sâu sắc về sự hợp nhất của Đấng Christ với nhân loại: “Bởi nhân tính của Ngài, Đấng Christ đã chạm đến nhân loại; bởi thần tính của Ngài, Ngài nắm giữ ngai của Đức Chúa Trời. Là Con Người, Ngài đã nêu gương vâng lời cho chúng ta; là Con của Đức Chúa Trời, Ngài ban cho chúng ta quyền năng để vâng lời. Đó chính là Đấng Christ từ bụi gai trên Núi Hô-rép phán với Môi-se rằng: ‘TA LÀ ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU…Hãy nói cho dân Y-sơ-ra-ên như vầy: ĐẤNG TỰ HỮU đã sai ta đến cùng các ngươi’ (Xuất Ê-díp-tô Ký 3:14). Đây là lời cam kết về sự giải cứu của Y-sơ-ra-ên. Vì vậy, khi Ngài đến ‘trong hình dạng loài người’, Ngài đã tuyên bố chính TA LÀ. Hài Nhi của thành Bết-lê-hem, Đấng Cứu Rỗi nhu mì và thấp hèn, là Đức Chúa Trời ‘hiện thân trong xác thịt’ (1 Ti-mô-thê 3:16). Và với chúng ta, Ngài nói: ‘TA LÀ Người Chăn Chiên Nhân Lành’. ‘TA LÀ Bánh hằng sống.’ ‘TA LÀ Đường Đi, Lẽ Thật và Sự Sống.’ ‘Tất cả quyền năng ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta’. Giăng 10:11; 6:51; 14:6; Ma-thi 28:18. TA LÀ sự đảm bảo cho mọi lời hứa. TA LÀ; đừng sợ.”—The Desire of Ages, tr. 24, 25.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

1. Bất chấp sự bất trung của dân sự, Đức Chúa Trời đã thể hiện sự thành tín vững chắc đối với giao ước Ngài như thế nào? Điều đó mang lại sự vững lòng nào cho con cái Ngài đang gặp khó khăn hôm nay?

2. Chức vụ Tế Lễ Thượng Phẩm theo dòng Mên-chi-xê-đéc độc đáo của Đấng Christ đã khiến sự cứu rỗi của dân sự Đức Chúa Trời vững chắc hơn ra sao?

3. Các sách Phúc âm cho thấy nhiều lời hứa trong Thi thiên về Đấng Mê-si đã được ứng nghiệm trong Chúa Giê-su Christ. Điều này chứng tỏ sự xác thực của Lời Đức Chúa Trời ra sao? Tại sao chúng ta phải chống lại bất kỳ mọi ý tưởng, tình cảm nào có xu hướng làm suy yếu sự tin cậy của chúng ta trong lời Chúa?

4. Chúng ta có thể có được sự an ủi tuyệt vời nào từ lời của Đấng Christ: “Tất cả quyền phép trên trời và dưới đất đã được giao cho ta” (Ma-thi-ơ 28:18). Chúng ta áp dụng lời hứa này như thế nào vào trải nghiệm của chính chúng ta?

Bài Học 8, 17–23 Tháng 2

Sự Khôn Ngoan Để Sống Chính Trực

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Thi thiên 119: 1–16; Thi thiên 90; Giăng 3:16; Thi thiên 95:7–11; Thi thiên 141; Thi thiên 128.

CÂU GỐC: “Xin dạy chúng tôi biết đếm các ngày chúng tôi, Hầu cho chúng tôi khôn ngoan” (Thi thiên 90:12).

Đọc Thi thiên 119:1–16, 161–168. Chúng ta nên tuân giữ các điều răn của Đức Chúa Trời ra sao, và việc làm đó mang lại những ơn phước nào?

Đọc Thi thiên 119:1–16, 161–168. Chúng ta nên tuân giữ các điều răn của Đức Chúa Trời ra sao, và việc làm đó mang lại những ơn phước nào?

Kinh Thánh mô tả đời sống đức tin hàng ngày như một cuộc hành hương (“bước đi”) với Đức Chúa Trời trên con đường công chính của Ngài. Đời sống đức tin được duy trì bằng cách “bước đi theo luật pháp của Đức Giê-hô-va” (Thi thiên 119:1) và bằng cách bước đi “trong ánh sáng của mặt Chúa” (Thi thiên 89:15). Đây không phải là hai bước đi khác nhau. Bước đi trong ánh sáng của dung nhan Đức Chúa Trời có nghĩa là tuân theo luật pháp của Đức Chúa Trời. Tương tự, bước đi “theo luật pháp của Đức Giê-hô-va” bao hàm việc hết lòng tìm kiếm Đức Chúa Trời (Thi thiên 119:1, 2, 10).

“Trọn vẹn (không ô uế) trong đường lối mình” (Thi thiên 119:1) là một diễn tả khác về đời sống công bình. “Không ô uế ” được dùng để mô tả của lễ “không tì vết chi” được Đức Chúa Trời chấp nhận (Xuất Ê-díp-tô Ký 12:5). Tương tự như vậy, đời sống của người công chính, là của lễ sống (Rô-ma 12:1), không bị ô uế bởi tình yêu dành cho tội lỗi. Một đời sống dâng mình cho Đức Chúa Trời cũng là một “con đường trọn vẹn”, nghĩa là một người chọn đi đúng hướng trong đời sống và điều ấy làm đẹp lòng Đức Chúa Trời (Thi thiên 101:2, 6; Thi thiên 18:32).

Việc vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời không liên quan gì đến việc tuân theo luật lệ của Đức Chúa Trời một cách hợp pháp. Trái lại, nó bao gồm “sự hiểu biết ” về sự khác biệt giữa đúng và sai, thiện và ác (Thi thiên 111:10; xem thêm 1 Sử ký 22:12), và liên quan đến cả nội tâm của con người, chứ không chỉ là những hành động bên ngoài. Giữ mình “không bị ô uế ”, vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời và hết lòng tìm kiếm Ngài, là những thái độ không thể tách rời trong cuộc sống (Thi thiên 119:1, 2).

Các điều răn của Đức Chúa Trời là sự mặc khải về ý muốn của Thượng Đế đối với nhân loại. Chúng chỉ dẫn con người cách trở nên khôn ngoan và sống trong tự do, an bình (Thi thiên119:7–11, 133). Tác giả Thi thiên ưa thích luật pháp vì luật pháp đảm bảo cho ông sự thành tín của Đức Chúa Trời (Thi thiên 119:77, 174).

“Phàm kẻ nào yêu mến luật pháp Chúa được bình yên lớn; Chẳng có sự gì gây cho họ vấp ngã” (Thi thiên 119:165). Hình ảnh vấp ngã diễn tả sự băng hoại về đạo đức. Là ngọn đèn cho chân tác giả Thi thiên (Thi thiên 119:105), Lời Đức Chúa Trời bảo vệ chúng ta khỏi những cám dỗ (Thi 119:110).

Đấng Christ đã biểu lộ quyền năng của Lời Đức Chúa Trời như thế nào trong đời sống Ngài (Ma-thi-ơ 4:1–11)? Điều này cho chúng ta biết gì về cái quyền năng đến từ tấm lòng quyết tuân theo luật pháp Đức Chúa Trời?

Đọc Thi thiên 90, Thi thiên 102:11 và Thi thiên 103:14–16. Loài người vướng phải tình thế khó khăn nào?

Sự hiện hữu của một nhân loại sa ngã chỉ như là hơi nước so với vĩnh cửu. Một ngàn năm trong mắt Chúa chỉ “như một canh của đêm,” tức khoảng ba, bốn tiếng đồng hồ (Thi thiên 90:4). So với thời gian thiêng liêng, một đời người bay vèo mất đi (Thi thiên 90:10). Kẻ mạnh nhất trong vòng loài người cũng giống như cây cỏ (Thi thiên 90: 5, 6; Thi thiên 103: 15, 16). Đã vậy, ngay cả cuộc đời ngắn ngủi ấy cũng đầy gian truân và buồn thảm (Thi thiên 90:10). Những người thế tục, những người không có niềm tin trong Chúa, cũng than khóc và rầu rỉ về sự ngắn ngủi của cuộc đời, nhất là khi so sánh với sự vĩnh cửu ngoài kia mà họ biết nó không màng đến họ.

Thi thiên 90 đặt tình trạng khó khăn của con người trong bối cảnh Đức Chúa Trời chăm sóc loài người vì Ngài là Đấng Tạo Hóa của họ. Đức Chúa Trời là nơi ở của dân Ngài trải qua mọi thế hệ (Thi thiên 90:1, 2). “Nơi ở,” trong tiếng Hê-bê-rơ ma’on miêu tả Chúa là nơi trú ẩn hay nơi ẩn náu của dân Ngài (Thi thiên 91:9).

Đức Chúa Trời kiềm chế cơn thịnh nộ chính đáng của Ngài và cứ gia thêm ân điển của Ngài. Tác giả Thi thiên thốt lên: “Ai biết được sức mạnh cơn giận của Ngài?”(Thi thiên 90:11), ngụ ý rằng chưa từng có ai trải nghiệm hết những tác động của sự giận dữ của Đức Chúa Trời đối với tội lỗi, vậy nên vẫn còn hy vọng cho dân sự biết ăn năn và đạt được sự khôn ngoan để sống đời công chính.

Sự khôn ngoan mô tả trong Kinh Thánh không chỉ là trí thông minh mà cũng là sự tôn kính Đức Chúa Trời. Sự khôn ngoan mà chúng ta cần đến là biết cách “đếm các ngày của chúng ta” (Thi thiên 90: 12). Nếu chúng ta có thể đếm các ngày của mình, điều đó có nghĩa là các ngày của chúng ta là có giới hạn và chúng ta biết rằng chúng có hạn. Sống khôn ngoan có nghĩa là sống với nhận thức về sự chóng qua của cuộc đời, và điều đó dẫn đến đức tin và sự vâng lời. Sự khôn ngoan này chỉ có được qua sự ăn năn của chúng ta (Thi thiên 90: 8, 12) cũng như qua sự tha thứ, lòng trắc ẩn và nhân từ của Đức Chúa Trời (Thi thiên 90:13, 14).

Việc chúng ta được tạo dựng nên như những con người không phải là vấn đề then chốt, nhưng điều chính yếu đó là tội lỗi và những gì tội lỗi đã gây ra trong thế giới chúng ta. Sự tàn phá của tội lỗi đã ảnh hưởng khắp nơi và trong mọi người.

Tuy nhiên, nhờ Đức Chúa Giê-su, chúng ta có một lối thoát khỏi tình trạng khó khăn ấy (Giăng 1:29, Giăng 3:14–21). Nếu không có Ngài, chúng ta sẽ chẳng có hy vọng nào cả.

Dù cho cuộc đời chúng ta ngắn ngủi đến đâu, chúng ta có lời hứa nào trong Đức Chúa Giê-su? (Giăng 3:16). Chúng ta có hy vọng gì nếu không có Ngài?

Đọc Thi thiên 81:7, 8; Thi thiên 95:7–11; và Thi thiên 105:17–22. Trong các đoạn Kinh Thánh này, sự thử nghiệm từ Đức Chúa Trời liên quan đến việc gì?

Mê-ri-ba là nơi dân Y-sơ-ra-ên thử thách Đức Chúa Trời bằng cách thách thức sự thành tín và quyền năng của Ngài trong việc chu cấp các nhu cầu cho họ (Xuất Ê-díp Ký 17:1-7; Thi thiên 95:8, 9). Thi thiên 81 là sự đảo ngược thú vị và giải thích sự việc giống như lúc Đức Chúa Trời thử thách dân Y-sơ-ra-ên (Thi thiên 81:7). Bởi sự bất tuân và thiếu tin cậy của họ (Thi thiên 81:11), dân sự đã thất bại trước sự thử thách của Đức Chúa Trời.

Việc đề cập đến Mê-ri-ba chuyển đạt một thông điệp đôi. Thứ nhất, dân sự Đức Chúa Trời không được lặp lại sự sai lầm của các thế hệ trước. Thay vào đó, họ phải tin cậy Đức Chúa Trời và bước đi trong đường lối Ngài (Thi thiên 81:13). Thứ hai, mặc dù dân sự đã thất bại trong sự thử thách ấy, nhưng Đức Chúa Trời vẫn giải cứu họ khi họ gặp khó khăn (Thi thiên 81:7). Ân điển cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong quá khứ đảm bảo ân điển của Ngài cho các thế hệ mới.

Thi thiên 105 cho thấy rằng thử thách là cách Đức Chúa Trời dùng để thử lòng tin cậy vào Lời Chúa của Giô-sép cho tương lai của mình (Sáng thế Ký 37:5−10, Thi thiên 105:19). Chữ Tsarap trong tiếng Hê-bơ-rơ, “được thử rèn” trong câu 19 mang ý nghĩa “thanh lọc” hay “tinh luyện”. Do đó, mục tiêu của việc Đức Chúa Trời thử thách đức tin của Giô-sép là để loại bỏ mọi nghi ngờ của ông về lời hứa của Ngài, và cũng để củng cố lòng tin của Giô-sép vào sự hướng dẫn của Ngài.

Mục tiêu của sự răn dạy thiêng liêng là để giúp con cái Đức Chúa Trời thêm vững mạnh, và chuẩn bị họ cho việc ứng nghiệm của lời hứa, như gương của Giô-sép (Thi thiên 105:20−22).

Tuy nhiên, sự từ chối những chỉ dẫn của Đức Chúa Trời đưa đến sự ương ngạnh và cứng lòng của một người bướng bỉnh.

“Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta tuân theo luật pháp Ngài cách sẵn sàng và không thắc mắc; nhưng người ta hoặc đang ngủ mê hoặc bị tê liệt bởi những lừa dối của Sa-tan – kẻ đưa ra những lời bào chữa và những thủ đoạn thuyết phục – như hắn đã nói với Ê-va trong vườn: ‘Các ngươi sẽ chẳng chết đâu’. Sự bất tuân không chỉ làm cứng lòng và làm chai lì lương tâm của người phạm tội, mà nó còn làm băng hoại đức tin của người khác. Điều mà thoạt đầu họ thấy rất sai lầm, nhưng sẽ dần dần mất đi tính chất ấy nếu cứ để nó tiếp diễn trước mắt họ, cho đến khi cuối cùng họ đặt câu hỏi có thật đó là tội lỗi không, để rồi họ sa vào tội lỗi giống như vậy cách vô thức.” Ellen G. White, Testimonies for the Church, vol. 4, tr. 146.

Bạn đã có kinh nghiệm gì về việc tội lỗi làm cho lòng mình chai đá? Tại sao ý tưởng đó kéo chúng ta đến thập giá, nơi chúng ta có thể tìm thấy sức mạnh để vâng lời?

Đọc Thi thiên 141. Tác giả Thi thiên cầu nguyện điều gì?

Thi thiên 141 là lời cầu nguyện xin được bảo vệ khỏi những cám dỗ đến từ bên trong lẫn bên ngoài. Tác giả gặp nguy hiểm không chỉ bởi những âm mưu của kẻ ác (Thi thiên 141:9, 10) mà còn bị cám dỗ để hành động giống như kẻ ác. Điểm yếu đầu tiên là sự thiếu kềm chế trong lời nói, và tác giả cầu nguyện xin Chúa canh giữ môi miệng ông (Thi thiên 141:3). Hình ảnh này ám chỉ việc canh gác cổng thành, vào thời Kinh Thánh, để bảo vệ thành.

Liệu con cái Đức Chúa Trời sẽ nghe theo lời khuyên của người công chính hay để bị cám dỗ bởi sự ngọt ngào của kẻ ác (Thi thiên 141:4, 5). Tác giả Thi thiên mô tả tấm lòng mình như một mối đe dọa chính vì ở đó trận chiến thực sự xảy ra. Chỉ có sự cầu nguyện không ngừng với lòng tin cậy và hiến dâng hoàn toàn cho Đức Chúa Trời mới có thể cứu con cái Ngài khỏi sự cám dỗ (Thi thiên 141:2).

Đọc Thi thiên 1:1 và Thi thiên 141:4. Mức phát triển và tính xảo quyệt của sự cám dỗ được miêu tả ở đây như thế nào?

Thi thiên 141:4 mô tả bản chất tiến dần của sự cám dỗ. Đầu tiên, tấm lòng nghiêng về điều ác. Tiếp đến, nó thực hiện những hành động xấu xa (nghĩa trong tiếng Hê-bơ-rơ nhấn mạnh tính chất lặp đi lặp lại của hành động). Sau đó, tấm lòng nếm sự ngọt ngào của kẻ ác, tức là chấp nhận những việc làm xấu xa của chúng như một điều đáng thèm muốn.

Tương tự như vậy, trong Thi thiên 1:1, sự cám dỗ đến để ngăn cản con cái Đức Chúa Trời đi trong đường lối của Chúa bằng cách khiến người ấy đi với kẻ ác, đứng trong đường tội nhân, và cuối cùng, ngồi với kẻ nhạo báng. Những kẻ tội lỗi, độc ác và nhạo báng: chúng ta không nên giống như họ hoặc để họ dẫn chúng ta xa Chúa.

Các Thi thiên mô tả tính chất tiến triển, quyến rũ và xảo quyệt của sức cám dỗ, điều này nhấn mạnh sự thật rằng chỉ có phụ thuộc hoàn toàn vào Chúa mới có thể đảm bảo cho một người chiến thắng sự cám dỗ. Các Thi thiên nhấn mạnh tầm quan trọng của những lời mà một người nói và nghe giữa lúc bị cám dỗ. Hồi kết cuộc của kẻ ác và người công bình sẽ dạy dân sự tìm kiếm sự khôn ngoan từ Đức Chúa Trời (Thi thiên 1:4–6, Thi thiên 141:8–10). Tuy nhiên, trong cả hai Thi thiên, sự minh oan cuối cùng của con cái Đức Chúa Trời vẫn là việc trong tương lai. Điều này có nghĩa là các tín đồ được kêu gọi hãy kiên nhẫn tin cậy Chúa và chờ đợi Ngài.

Đọc Thi thiên 1:1–3, Thi thiên 112:1–9, và Thi thiên 128. Những phước lành nào được hứa cho những người tôn kính Chúa?

Trong những phước lành hứa cho những người tôn kính Chúa, có lẽ sự bình an là một trong những ơn phước lớn nhất. Thi thiên 1 mô tả người công bình qua ví dụ về cây trồng bên dòng nước, ra trái đúng mùa và lá không tàn héo (Thi thiên 1:3; Giê-rê-mi 17:7, 8; Ê-xê-chi-ên 47:12). Ví dụ này xác định nguồn gốc của mọi ơn phước – đó là ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong nơi thánh của Ngài và tận hưởng mối liên hệ yêu thương và không bị gián đoạn với Đức Chúa Trời. Không như kẻ ác được tả như rơm rác —không có sự ổn định, chỗ đứng và tương lai — người công bình giống như cây sai trái có rễ, một nơi gần Đức Chúa Trời và sự sống đời đời.

Thi thiên 128:2, 3 gợi lên những phước lành của vương quốc Đấng Mêsi, nơi mà việc ngồi dưới gốc cây nho và cây vả của chính mình là biểu tượng của hòa bình và thịnh vượng (Mi-chê 4:4). Lời chúc hòa bình cho Giê-ru-sa-lem (Thi thiên 122:6−8; Thi thiên 128:5, 6) truyền đạt niềm hy vọng nơi Đấng Mê-si là Đấng sẽ chấm dứt điều ác và khôi phục hòa bình trên thế giới.

“Theo Kinh Thánh, cơ nghiệp của những người được cứu gọi là “quê hương” (Hê-bơ-rơ 11:14-16). Nơi đây, Đấng Chăn chiên sẽ dẫn bầy chiên Ngài đến suối nước sự sống. Cây sự sống ra trái mỗi tháng, và lá cây được dùng cho lợi ích muôn dân. Những dòng suối không bao giờ ngưng chảy, trong như lưu ly, và hai bên bờ suối những cành cây đong đưa, phủ bóng xuống các con đường dọn sẵn cho người được chuộc. Nơi đây, những đồng bằng trải dài khoe nét đẹp, và đồi núi chập chùng với ngọn vươn cao vút. Chính trên những đồng bằng an bình, bên cạnh những dòng suối trong vắt, dân sự Đức Chúa Trời từ lâu là kẻ lữ hành sẽ tìm được một tổ ấm.” —Ellen G. White, Thiện Ác Đấu Tranh, tr. 597 [Bản Việt ngữ] (The Great Controversy, p. 675).

Tân Ước mô tả niềm hy vọng đó sẽ được ứng nghiệm trong lần tái lâm của Đấng Christ và sự sáng tạo một thế giới mới (Ma-thi-ơ 26:29, Khải huyền 21). Vì vậy, người ngay chính tuy nhận được nhiều ân phước trong cuộc sống này, nhưng ân huệ trọn vẹn của Đức Chúa Trời sẽ chờ đợi họ khi vương quốc của Ngài được khôi phục hoàn toàn vào thời kỳ cuối cùng.

Tại sao thập giá, và những gì xảy ra ở đó, là sự đảm bảo cho những lời hứa được tìm thấy trong Tân Ước về những gì Đức Chúa Trời dành sẵn cho chúng ta? Làm thế nào chúng ta có thể có được sự an ủi từ những lời hứa đó ngay bây giờ?

NGHIÊN CỨU BỔ TÚC: Trong thời hiện đại này, có được trí tuệ dường như không được ưa chuộng bằng có được hạnh phúc. Người ta thà hạnh phúc hơn khôn ngoan. Tuy nhiên, liệu chúng ta có thể thực sự hạnh phúc và sống một đời viên mãn nếu không có sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời? Các bài Thánh thi nói rõ ràng rằng không thể được. Tin tốt là chúng ta không bị yêu cầu phải lựa chọn giữa trí tuệ và hạnh phúc. Sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời mang lại hạnh phúc thật.

Một ví dụ đơn giản từ ngôn ngữ Hê-bơ-rơ có thể minh họa điểm này. Trong tiếng Hê-bơ-rơ, từ “bước” ở số nhiều (‘ashurey) nghe rất giống từ “hạnh phúc” (‘ashrey). Mặc dù chúng ta không thấy sự liên hệ này trong các bản dịch tiếng Anh, nhưng nó truyền tải một thông điệp mạnh mẽ: “các bước” đi theo con đường của Đức Chúa Trời dẫn đến một đời sống “hạnh phúc” (Thi thiên 1:1; 17:5; 37:31; 44:18; 89:15; 119:1). Trong Kinh Thánh, sự khôn ngoan và hạnh phúc không phải là một khái niệm trừu tượng, mà là một trải nghiệm thực sự.

Chúng được tìm thấy trong mối liên hệ với Đức Chúa Trời, bao gồm sự tôn kính, ngợi khen, tin cậy và tìm sức mạnh nơi Ngài. Thi thiên 25:14 nói rằng “ Đức Giê-hô-va kết bạn thiết cùng những người kính sợ Ngài; Và sẽ tỏ cho họ thấy giao ước của Ngài”.

“Hãy tạ ơn Đức Chúa Trời về những hình ảnh tươi sáng mà Ngài đã ban cho chúng ta. Chúng ta hãy kết hợp lại những lời hứa quí báu về lòng bác ái của Đức Chúa Trời, luôn luôn ghi nhớ rằng Con của Đức Chúa Trời đã lìa ngôi báu của Cha Ngài, mặc nhân tính vào thần tính của Ngài để có thể cứu chuộc con người khỏi quyền lực của Sa-tan; sự đắc thắng của Ngài cho chúng ta, mở cửa trời cho loài người, bày tỏ cho họ thấy nơi Chúa biểu lộ sự vinh hiển của Ngài; việc con người sa ngã được kéo ra khỏi hố sâu chết mất mà tội lỗi đã xô đẩy họ xuống, rồi đưa họ về mối tương giao mật thiết với Đức Chúa Trời đời đời, chịu nổi cuộc thử thách nhờ đức tin nơi Đấng Cứu Thế, mặc lấy sự công bình của Đấng Cơ Đốc rồi được đưa lên tận ngôi báu của Ngài—mọi việc ấy là những hình ảnh mà Đức Chúa Trời muốn chúng ta chiêm ngưỡng vậy.”—Ellen G. White, Con Đường Giải Thoát, trang 101, 102 [Bản Việt Ngữ] (Steps to Christ, p. 118).

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

1. Làm thế nào Lời Đức Chúa Trời có thể trở thành nguồn vui thích chứ không chỉ là lời chỉ bảo? Việc nuôi dưỡng bởi Lời Đức Chúa Trời liên quan thế nào đến việc ở trong Chúa Giê-su Christ, là Ngôi Lời (Giăng 1:1; Giăng 15:5, 7)?

2. Điều gì xảy ra khi con người cố ý và liên tục bác bỏ sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời (Thi thiên 81, 95)? Bạn nghĩ vì sao điều đó xảy ra?

3. Lắm khi đường lối kẻ ác xem ra có vẻ đáng chuộng hơn lời khuyên dạy của người công bình (Thi thiên 141), vì sao lại thế ? Làm thế nào chúng ta đối phó với sự thật (dường như vậy) là lắm lúc kẻ ác giống như được hưng thịnh?

Bài Học 7, 10 Tháng 2 — 16 Tháng 2

Sự Nhân Từ Ngài Cao Đến Tận Trời

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Thi thiên 136; Thi thiên 51, Thi thiên 130, Thi thiên 113, Thi thiên 123.

CÂU GỐC: “Hỡi Chúa, tôi sẽ cảm tạ Chúa giữa các dân, Hát ngợi khen Chúa trong các nước. Vì sự nhân từ Chúa lớn đến tận trời, Sự chân thật Chúa cao đến các từng mây ”(Thi thiên 57:9, 10).

Đọc Thi thiên 136. Ý tưởng nào nổi bật hơn hết trong bài Thánh thi này? Tác giả tìm thấy bằng chứng cho lời xác nhận liên tiếp của mình ở đâu?

 

Thi thiên 136 kêu gọi dân sự Đức Chúa Trời hãy ca ngợi Chúa vì lòng nhân từ của Ngài đã được bày tỏ qua sự sáng tạo (Thi thiên 136:4−9) và qua lịch sử của Y-sơ-ra-ên (Thi thiên 136:10−22). “Lòng nhân từ” (tiếng Hê-bơ-rơ khesed, “tình yêu bền vững”) truyền đạt sự thương xót và thủy chung của Đức Chúa Trời đối với tạo vật và với giao ước của Ngài với Y-sơ-ra-ên. Thi thiên cho thấy quyền năng bao la và sự vĩ đại của Đức Chúa Trời là dựa trên tình yêu bền vững của Ngài. Đức Chúa Trời là “Vua của các vua và Chúa của các chúa,” đó là một thành ngữ Hê-bơ-rơ, có nghĩa là “Đức Chúa Trời vĩ đại nhất” (Thi thiên 136:1–3)—chỉ có Ngài là Chúa, và không có chúa nào khác. Những kỳ công vĩ đại của Đức Chúa Trời, những việc không ai khác có thể bắt chước hay sao chép được, là minh chứng vững chắc về sự trị vì tối cao của Ngài (Thi thiên 136: 4). Đức Chúa Trời dựng nên trời, đất và các thiên thể mà dân ngoại tôn thờ (Phục truyền Luật lệ Ký 4:19). Tuy nhiên, Thi thiên tước bỏ quyền lực của các vị thần ngoại giáo, và nguồn tin cậy dựa trên loài người. Chúng chỉ là sản phẩm của sự sáng tạo. Chúng chỉ là những tạo vật—không phải Đấng Tạo Hóa, một điểm khác biệt quan trọng. Hình ảnh bàn tay mạnh mẽ và cánh tay dang rộng của Chúa (Thi thiên 136:12) nhấn mạnh sự hiệu nghiệm của quyền năng Đức Chúa Trời và phạm vi rộng lớn của lòng thương xót của Ngài. Lòng nhân từ của Đức Chúa Trời trong sự sáng tạo và trong lịch sử sẽ truyền cảm hứng cho dân sự tin tưởng nơi Ngài và thành tín với giao ước của Ngài. Điệp khúc “Vì sự nhân từ Ngài còn đến đời đời” được lặp lại 26 lần trong bài Thánh thi này, do đó trấn an những người thờ phượng Chúa rằng Ngài không thay đổi và sẽ lặp lại những ân huệ trong quá khứ của Ngài cho mỗi thế hệ mới. Đức Chúa Trời nhớ đến dân Ngài (Thi thiên 136:23) và thành tín với giao ước ân điển của Ngài. Niềm tin vào lòng thương xót lâu dài của Chúa là cốt lõi của đức tin Kinh Thánh, bao gồm sự thờ phượng và sự tin cậy trong vui mừng, cùng với sự bình lặng và ăn năn. Thi thiên 136:23–25 kết thúc với sự chăm sóc phổ quát của Đức Chúa Trời đối với thế gian. Lòng thương xót của Chúa không chỉ dành cho Y-sơ-ra-ên nhưng cho tất cả tạo vật. Ân điển cứu rỗi của Đức Chúa Trời là cho tất cả và Thi thiên kêu gọi toàn nhân loại hãy cùng với dân Y-sơ-ra-ên ngợi khen Ngài (xem thêm Lu-ca 2:10, Giăng 3:16, Công vụ các sứ đồ 15:17).

Hình ảnh Đức Chúa Giê-su trên thập giá, chết thay cho tội lỗi chúng ta, bày tỏ mạnh mẽ như thế nào lẽ thật vĩ đại về Đức Chúa Trời, rằng “Tình yêu Ngài còn đến đời đời”?

Đọc Thi thiên 51:1–5. Tại sao tác giả Thi thiên kêu cầu lòng thương xót của Đức Chúa Trời?

Vua Đa-vít dốc đổ tâm sự mình trước mặt Đức Chúa Trời, cầu xin sự tha thứ tội lỗi trong những thời điểm đen tối nhất về mặt tâm linh trong cuộc đời ông (2 Sa-mu-ên 12). Sự tha thứ là món quà ân điển phi thường của Đức Chúa Trời, là kết quả của “sự từ bi rất lớn của Chúa” (Thi thiên 51:1). Vua Đa-vít cầu xin Đức Chúa Trời sửa trị ông, không phải theo tội lỗi của ông đáng phải chịu (Thi thiên 103:10) mà theo bản chất thiêng liêng của Ngài, đó là lòng nhân từ, sự thành tín và lòng trắc ẩn của Ngài (Thi thiên 51:1; Xuất Ê-díp-tô Ký 34: 6, 7).

Đọc Thi thiên 51:6–19. Sự tha thứ tội lỗi được mô tả ở đây như thế nào? Mục tiêu của sự tha thứ thiêng liêng là gì?

Sự tha thứ thiêng liêng bao gồm nhiều điều hơn là một lời tuyên bố vô tội về mặt pháp lý. Nó tạo ra một sự thay đổi sâu sắc thấu đến tận nơi sâu thẳm nhất của con người (Thi thiên 51:6, Hê-bơ-rơ 4:12). Nó mang lại một sáng tạo mới (Thi thiên 51:10, Giăng 3:3–8). Động từ tiếng Hê-bơ-rơ bara’, được dịch là “sáng tạo”, mô tả quyền năng sáng tạo thiêng liêng (Sáng thế Ký 1:1). Chỉ có Chúa mới có thể ‘bara’; chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể tạo ra một sự thay đổi hoàn toàn và lâu dài trong lòng của người biết ăn năn (2 Cô-rinh-tô 4:6). Đa-vít cầu xin được tẩy sạch bằng chùm kinh giới (Lê-vi Ký 14:2–8, Thi thiên 51:7). Ông cảm thấy rằng tội lỗi đã khiến ông phải xa cách khỏi sự hiện diện của Đức Chúa Trời, như người phung bị tách rời khỏi cộng đồng khi thân thể vẫn còn ô uế (Thi thiên 51:11). Ông sợ rằng những của lễ dâng không thể hoàn toàn phục hồi ông vì không có của lễ nào có thể chuộc tội ngoại tình và giết người mà ông đã cố mưu tính (Xuất Ê-díp-tô Ký 21:14, Lê-vi Ký 20:10). Chỉ có ân tứ thiêng liêng vô điều kiện mới có thể chấp nhận “tâm thần đau thương và lòng thống hối” của Đa-vít làm của lễ hy sinh và giúp Đa-vít trở lại hòa thuận với Đức Chúa Trời (Thi thiên 51:16, 17). Ông xin được tẩy sạch bằng cây kinh giới để có thể trở lại trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời.

Nếu Đức Chúa Trời có thể tha thứ cho Đa-vít về tội ngoại tình, lừa dối và giết người, vậy thì bạn có hy vọng gì?

Đọc Thi thiên 130. Mức độ nghiêm trọng của tội lỗi và niềm hy vọng dành cho tội nhân được miêu tả ra sao?

Nỗi khổ sở lớn lao của tác giả Thi thiên có liên quan đến tội lỗi của chính ông và của dân tộc ông (Thi thiên 130:3, 8). Tội lỗi của con người nghiêm trọng đến mức chúng đe dọa sẽ mãi mãi chia rẽ con người khỏi Đức Chúa Trời (Thi thiên 130:3). Kinh Thánh nói về những hồ sơ ghi chép tội lỗi đang được lưu giữ cho Ngày Phán Xét (Đa-ni-ên 7:10, Khải huyền 20:12) và tên của những tội nhân bị xóa khỏi sách sự sống (Xuất Ê-díp-tô Ký 32:32, Thi thiên 69:28, Khải huyền 13:8). Do đó, tác giả Thi thiên kêu cầu sự tha thứ của Đức Chúa Trời để mọi tội lỗi được xoá sạch (Thi thiên 51:1, 9; Giê-rê-mi 31:34; Mi-chê 7:19). Ông biết rằng “Đức Chúa Trời vốn không giận dữ. Tình yêu của Ngài là vĩnh cửu. ‘Cơn giận’ của Ngài chỉ chỗi dậy khi con người không đánh giá cao tình yêu của Ngài. . . . Mục đích cơn giận của Ngài không phải là để làm thương tổn, mà là để chữa lành con người; không phải để hủy diệt mà để cứu dân giao ước của Ngài (xem Ô-sê 6:1, 2).”—Hans K. LaRondelle, Deliverance in the Psalms (1983), tr. 180, 181. Điều đáng chú ý là chính Đức Chúa Trời sẵn sàng tha thứ tội lỗi chứ không phải để trừng phạt họ, điều này đã truyền cảm hứng cho sự tôn kính Chúa (Thi thiên 130:4, Rô-ma 2:4). Sự thờ phượng chân thật được xây dựng trên sự ngưỡng mộ đức tính yêu thương của Đức Chúa Trời, chứ không phải trên sự sợ hãi hình phạt. Con cái Đức Chúa Trời được kêu gọi để trông đợi Chúa (Thi thiên 27:14; Thi thiên 37:34). Chữ qawah trong tiếng Hê-bơ-rơ, “chờ đợi,” nghĩa đen là “duỗi ra,” và là chữ gốc của từ Hê-bơ-rơ có nghĩa là “hy vọng”. Vì vậy, chờ đợi Chúa không phải là một sự đầu hàng thụ động trước những hoàn cảnh khốn khổ mà đúng hơn là một sự “duỗi ra” đầy hy vọng hoặc háo hức chờ đợi sự can thiệp của Chúa. Niềm hy vọng của tác giả Thi thiên không dựa trên sự lạc quan của cá nhân ông, mà dựa trên Lời Đức Chúa Trời (Thi thiên 130:5). Trung thành trông đợi Chúa không phải là vô ích, vì sau đêm tối là buổi bình minh của giải thoát thiêng liêng. Hãy chú ý xem lời cầu xin cá nhân của tác giả trở thành lời cầu xin của cả cộng đồng (Thi thiên 130:7, 8). Hạnh phúc của cá nhân không thể tách rời khỏi hạnh phúc của toàn dân. Thế nên chúng ta không chỉ cầu nguyện cho riêng bản thân mà còn cho cả cộng đồng. Chúng ta là tín hữu trong một cộng đồng và những gì ảnh hưởng đến một bộ phận của cộng đồng sẽ ảnh hưởng đến tất cả mọi người.

Hãy suy nghĩ về câu hỏi: “Lạy Đức Giê-hô-va, nếu Ngài ghi nhớ tội lỗi, thì ai có thể đứng nổi?” (Thi thiên 130:3). Điều đó có ý nghĩa gì đối với cá nhân bạn? Bạn sẽ ở nơi nào nếu Chúa ghi nhớ sự gian ác của bạn?

Đọc Thi thiên 113 và 123. Hai khía cạnh khác nhau nào trong đặc tính của Đức Chúa Trời được miêu tả trong các Thi thiên này?

Thi thiên 113 và 123 ca ngợi sự uy nghi và lòng thương xót của Đức Chúa Trời. Sự uy nghi của Chúa được bày tỏ trong sự vĩ đại của danh Ngài và tại nơi cao quý của ngôi Ngài, là điều vượt cao hơn mọi dân tộc và cao hơn các từng trời (Thi thiên 113: 4, 5; Thi thiên 123:1). “Ai giống như Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi” (Thi thiên 113:5) là một lời tuyên bố về đức tin rằng không một thế lực nào trong hay ngoài thế gian có thể thách thức Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Chúa ngự trên những nơi cao không thể với tới được minh hoạ qua sự kiện rằng Ngài sẵn lòng “hạ mình xuống” hay “cúi xuống để nhìn xem trời và đất” (Thi thiên 113: 6). Đức Chúa Trời ngự trên cao không cản trở việc Ngài nhìn thấy những gì đang xảy ra ở dưới thế gian. Lòng nhân từ của Chúa được thể hiện trong sự Ngài sẵn sàng tham gia với thế giới và cứu những người thiếu thốn và khốn cùng khỏi những khó khăn của họ. Bàn tay hào phóng của Chúa rõ ràng không giấu được các tôi tớ của Ngài, mặc dù Ngài ngự trên các tầng trời xa xôi. Sự cao cả và chăm sóc của Đức Chúa Trời được thấy rõ ràng qua các hành động thương xót và trắc ẩn của Ngài. Những người thiếu thốn, nghèo khó và bị áp bức có thể kinh nghiệm được quyền năng tối cao của Đức Chúa Trời với hoàn cảnh được thay đổi hoàn toàn mà Ngài đã thực hiện cho họ. Ngài xử dụng quyền năng mình để nâng cao những kẻ bị hạ thấp. Ngài là Đấng Tạo Hóa và Đấng Bảo Trợ của họ và dân sự là con cái yêu dấu của Ngài. Do đó, sự thờ phượng được thúc đẩy, không chỉ bởi sự vĩ đại của Đức Chúa Trời mà còn bởi sự tốt lành của Ngài. Sự ngợi khen không bị giới hạn bởi thời gian và không gian (Thi thiên 113: 2, 3). Sự vĩ đại và lòng thương xót của Đức Chúa Trời được thể hiện rõ nhất trong Chúa Giê-su Christ, Đấng sẵn sàng từ trời cúi xuống và tự hạ mình chịu chết trên thập giá để nâng lên một nhân loại sa ngã (Phi-líp 2:6−8). Tại thập tự giá, chúng ta có những lý do vĩ đại nhất để thờ phượng và ngợi khen Đức Chúa Trời vì những gì Ngài đã làm cho chúng ta.

Hãy suy tưởng về thập giá và những gì đã xảy ra ở đó riêng cho cá nhân bạn. Đức Chúa Giê-su đã cứu bạn khỏi điều gì? Tại sao việc đưa thập tự giá lên hàng đầu trong tâm trí bạn là điều quan trọng?

Đọc Thi thiên 103. Lòng nhân từ của Đức Chúa Trời được miêu tả như thế nào ở đây?

Thi thiên 103 liệt kê các phước lành đa dạng của Đức Giê-hô-va. Các phước lành bao gồm “tất cả các ân huệ của Ngài” (Thi thiên 103:2) cho một đời sống hưng thịnh (Thi thiên 103:3−6). Những phước lành này dựa trên bản chất nhân từ của Chúa và sự thành tín của Ngài đối với giao ước Ngài lập với Y-sơ-ra-ên (Thi thiên 103:7−18). Đức Giê-hô-va “nhớ đến” sự yếu đuối và ngắn ngủi của con người và Ngài động lòng trắc ẩn cho dân sự Ngài (Thi thiên 103:13–17). Nhớ đến không chỉ là hoạt động nhận thức đơn thuần. Nó liên quan đến một cam kết được thể hiện bằng hành động: Đức Chúa Trời giải cứu và nâng đỡ dân Ngài (Thi thiên 103:3−13). Những hình ảnh hùng mạnh trong (Thi thiên 103:11−16) minh hoạ sự vĩ đại vô hạn của ân điển Đức Chúa Trời, điều chỉ có thể so sánh với sự bao la vô hạn của các tầng trời (Ê-sai 55:9). Vậy thì con người nên đáp lại lòng nhân từ của Đức Chúa Trời ra sao? Thứ nhất, bằng cách chúc phước Chúa (Thi thiên 103:1, 2). Chúc phước thường được hiểu là hành động ban phát lợi ích vật chất và tinh thần cho ai đó (Sáng thế Ký 49:25; Thi thiên 5:12). Vì Đức Chúa Trời là Nguồn của mọi ơn phước, loài người làm sao có thể chúc phước Chúa được? Cấp dưới có thể chúc phước cấp trên như một cách để cảm ơn hoặc khen ngợi người cao hơn (1 Các Vua 8:66; Gióp 29:13). Đức Chúa Trời ban phước cho con người bằng cách ban điều tốt cho họ, và con người chúc phước cho Đức Chúa Trời bằng cách ca ngợi điều tốt nơi Ngài; nghĩa là, bằng cách tôn kính Ngài vì đức tính nhân từ của Ngài. Thứ hai, bằng cách ghi nhớ mọi ân huệ và giao ước của Ngài (Thi thiên 103:2, 18–22), giống như Chúa nhớ đến thân phận yếu đuối của con người và giao ước của Ngài với dân Ngài (Thi thiên 103:3–13). Ghi nhớ là một khía cạnh quan trọng trong mối liên hệ giữa Đức Chúa Trời và dân Ngài. Cũng như Đức Chúa Trời nhớ đến những lời hứa của Ngài với dân sự, thì dân sự cũng phải ghi nhớ sự thành tín của Đức Chúa Trời và đáp lại bằng tình yêu và sự vâng lời. Với ý tưởng này trong đầu, những lời nổi tiếng này của Ellen G. White rất thích hợp: “Mỗi ngày chúng ta nên biệt riêng thì giờ để suy ngẫm về cuộc đời của Đấng Christ. Chúng ta nên xem xét từng thời điểm một, và để trí tưởng tượng nắm lấy từng giai đoạn, đặc biệt là giai đoạn kết thúc. Và khi chúng ta chăm chú vào sự hy sinh vĩ đại của Ngài dành cho chúng ta, thì niềm tin tưởng của chúng ta nơi Ngài sẽ kiên định hơn, tình yêu của chúng ta sẽ mạnh mẽ hơn, và chúng ta sẽ thấm nhuần sâu sắc hơn tinh thần của Ngài. Nếu cuối cùng chúng ta muốn được cứu, chúng ta phải học bài học ăn năn và khiêm nhường tại chân thập giá.”—The Desire of Ages, tr. 83.

Đọc Ellen G. White, “Cần Có Một Đấng Cứu Thế ” tr. 14-18, trong Con Đường Cứu Rỗi. Trong các Thi thiên, dân sự Đức Chúa Trời nhiều lần đồng ca điệp khúc “Sự nhân từ Ngài còn đến đời đời” để ca ngợi tình yêu vĩnh cửu của Đức Chúa Trời (Thi thiên 106:1; Thi thiên 107:1; Thi thiên118:1 –4, 29; Thi thiên 136). “Không ngợi khen Đức Chúa Trời có nghĩa là không nhớ đến những ân huệ của Ngài, không quý trọng những ơn phước của Chúa. Một người khi ca ngợi sẽ không quên. Nghĩ và nói về Chúa chưa phải là ngợi khen Ngài. Sự ngợi khen bắt đầu khi một người thừa nhận sự uy nghiêm và công việc của Đức Chúa Trời và đáp lại bằng sự thờ kính lòng nhân từ, sự thương xót và sự khôn ngoan của Ngài.”—Hans LaRondelle, Deliverance in the Psalms, tr. 178. Ý nghĩa của lời tuyên bố trang nghiêm về lòng nhân từ lâu dài của Đức Chúa Trời càng có ý nghĩa sâu sắc hơn khi chúng ta nhớ rằng, lòng nhân từ và sự thành tín theo giao ước của Ngài là chắc chắn và không thay đổi giữa những tội lỗi và phản nghịch của loài người chống lại Ngài. “Chúng ta đã phạm tội chống lại Ngài, và không xứng đáng với ân huệ của Chúa; tuy nhiên, chính Ngài đã đặt vào môi miệng chúng ta lời cầu xin tuyệt vời nhất: ‘Xin hãy vì danh Ngài đừng ghê tởm chúng tôi; đừng làm ô nhục ngai vinh hiển! Xin Ngài nhớ lời giao ước với chúng tôi mà chớ hủy’ (Giê-rê-mi 14:21). Khi chúng ta đến với Ngài để thú nhận sự không xứng đáng và tội lỗi của mình, chính Ngài đã cam kết sẽ lắng nghe tiếng kêu cầu của chúng ta. Danh dự của ngai Ngài là sự cam kết cho việc hoàn thành lời hứa Ngài dành cho chúng ta.”—Ellen G. White, Christ’s Object Lesons, tr. 148. Trải nghiệm về lòng nhân từ của Đức Chúa Trời (Thi thiên 103:2) tác giả mạnh dạng nói rằng, “Đức Giê-hô-va thi hành sự công bình và công lý cho mọi người bị hà hiếp” (Thi thiên 103:6). Vì vậy, mục đích cuối cùng của lời chứng cá nhân của tác giả, và sự ca ngợi lòng thương xót của Đức Chúa Trời trong cuộc đời ông, là giúp người khác an tâm về lòng nhân từ của Đức Chúa Trời, để họ cũng có thể mở lòng ra tiếp nhận ân điển cứu rỗi của Ngài, và ngợi khen Ngài (Thi thiên 9:11, 12; Thi thiên 22:22–27; Thi thiên 66:16).

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

  1. Ý nghĩa về sự vĩnh cửu của lòng nhân từ của Đức Chúa Trời để cứu rỗi con người là gì? Tại sao điều này không có nghĩa là một người có thể tiếp tục phạm tội vì lòng nhân từ của Đức Chúa Trời là mãi mãi ? 
  2. Làm thế nào chúng ta dung hòa hai điều này: Chúa tha tội cho chúng ta và Chúa cũng phán xét tội lỗi chúng ta?
  3. Những lời bày tỏ lòng thương xót của Đức Chúa Trời trong Tân Ước phù hợp như thế nào với những lời trong Thi thiên (Ê-phê-sô 2:4, 5; 1 Ti-mô-thê 1:16; Tít 3:5; Hê-bơ-rơ 4:16)?

Bài Học 6, 3 Tháng 2 — 9 Tháng 2

Ta Sẽ Chỗi Dậy

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU:Thi thiên 18:3–18; Thi thiên 41:1–3; Phục
truyền Luật lệ Ký 15:7–11; Thi thiên 82; Thi thiên 96:6–10; Thi thiên 99:1–4;
Rô-ma 8:34.

CÂU GỐC: “Đức Giê-hô-va phán ‘Nhân vì người khốn cùng bị hà hiếp, và kẻ thiếu thốn rên siết, Ta sẽ chỗi dậy, Ta sẽ đặt người tại nơi an toàn, là nơi người mong muốn’ ” (Thi thiên 12:5).

Đọc Thi thiên 18:3–18; Thi thiên 76:3–9, 12; và Thi thiên 144:5–7. Đức Giê-hô-va được mô tả như thế nào trong các câu Kinh Thánh này? Những hình ảnh này nói lên điều gì về việc Đức Chúa Trời sẵn sàng giải cứu dân Ngài?

Những bài Thánh thi này ca ngợi Đức Chúa Trời về quyền năng đáng sợ của Ngài đối với các thế lực tà ác đang đe dọa dân sự Ngài. Tác giả miêu tả Đức Chúa Trời trong sự uy nghiêm như một Dũng Tướng và Quan Án. Hình ảnh Đức Chúa Trời như một Dũng Tướng xuất hiện thường xuyên trong các Thi thiên và nhấn mạnh sự nghiêm trọng và cấp bách của phản ứng của Chúa đối với tiếng kêu than và gian khổ của dân sự Ngài. “Đức Giê-hô-va sấm sét trên các từng trời / Đấng Chí Cao làm cho vang rền tiếng của Ngài / đã cất tiếng Ngài / Có mưa đá và than lửa / Ngài bắn tên khiến quân thù tan tác / Phát chớp nhoáng nhiều khiến chúng nó lạc đường / Sau đó, các kênh của biển đã được thấy / Các nền của thế giới đã lộ ra / Trước sự quở trách của Ngài, hỡi Đức Giê-hô-va / Đáy biển bèn lộ ra / Và các nền thế gian bị phơi bày” (Thi thiên 18:13–15). Những nghi ngờ về lòng trắc ẩn bao la, và sự quan tâm của Ngài đối với những kẻ khổ đau, về khả năng mà Ngài có thể đánh bại điều ác sẽ bị xoá tan trước sự quyết tâm và cường độ của hành động của Chúa. Chúng ta chỉ cần đợi Ngài làm điều đó. Cuối cùng, ngay cả khi dân sự của Đức Chúa Trời, chẳng hạn như Đa-vít, tham gia vào chiến cuộc, thì sự giải cứu không đến từ phương tiện của con người. Trong nhiều trận chiến chống lại kẻ thù của dân sự Đức Chúa Trời, vua Đa-vít ca ngợi Chúa là Đấng duy nhất đạt được mọi chiến thắng. Vua Đa-vít có thể dễ dàng tự nhận những chiến công là thuộc về mình, nhưng vua không nghĩ đến điều đó. Đa-vít biết nguồn sức mạnh của mình đến từ đâu. Mặc dù Đa-vít nói rằng Chúa rèn luyện tay ông để chiến đấu (Thi thiên 18:34), nhưng không chỗ nào trong Thi thiên nói rằng ông dựa vào tài năng chiến đấu của mình. Thay vào đó, Chúa chiến đấu cho Đa-vít và giải cứu ông (Thi thiên 18:47, 48). Trong Thi thiên, vua Đa-vít, người được biết đến như một chiến sĩ thành công, đảm nhận vai trò một nhạc sĩ tài ba và ca ngợi Đức Giê-hô-va là Đấng Giải thoát và Nâng Đỡ dân Ngài (Thi thiên 144: 10−15). Ngợi khen và cầu nguyện Chúa là nguồn sức mạnh của Đa-vít, mạnh hơn bất kỳ võ khí chiến tranh nào. Chỉ một mình Đức Chúa Trời là đáng tin cậy và đáng tôn thờ.

Dầu bạn có nhiều tài năng thiên phú, tháo vát và thành công trong cuộc sống, tại sao bạn phải luôn nhớ đến nguồn gốc của tất cả những điều đó? Bạn sẽ gặp nguy hiểm nào nếu bạn quên đi nguồn gốc đó?

Đọc Thi thiên 9:18; Thi thiên 12:5; Thi thiên 40:17; Thi thiên 113:7; Thi thiên 146:6−10 và Thi thiên 41:1–3. Các bài Thi thiên này cho chúng ta thông điệp gì, ngay cả ngày hôm nay?

Đức Chúa Trời biểu lộ sự quan tâm và chăm sóc đặc biệt về công lý cho những nhóm người dễ bị tổn thương như những người nghèo khó, túng thiếu, bị áp bức, mồ côi, góa bụa, và khách lạ. Các bài Thi thiên, cũng như Luật pháp và các lời tiên tri, đều rất minh bạch về điểm đó (Xuất Ê-díp-tô Ký 22:21–27; Ê-sai 3:13–15). Nhiều bài Thánh thi dùng thành ngữ “thiếu thốn và khốn cùng” và tránh dùng những thuật ngữ thuộc riêng cho tôn giáo và quốc gia để đại diện những kẻ bị áp bức. Điều này làm nổi bật sự chăm sóc phổ quát của Đức Chúa Trời cho toàn nhân loại. Cụm từ “thiếu thốn và khốn cùng” không chỉ giới hạn ở sự nghèo đói về vật chất mà còn biểu thị sự dễ bị tổn thương và bất lực. Thành ngữ này gợi lên lòng trắc ẩn của Đức Chúa Trời, và nó truyền đạt ý tưởng rằng những người đau khổ thường trơ trọi một mình và không có sự giúp đỡ nào khác ngoài Đức Chúa Trời. Việc miêu tả “thiếu thốn và khốn cùng” cũng chỉ đến sự chân thành, trung thực và tình yêu của một người dành cho Đức Chúa Trời khi họ thú nhận sự phụ thuộc hoàn toàn của mình vào Chúa và từ bỏ mọi dấu vết của sự tự lực và tự hào. Trong khi đó, việc chăm sóc những kẻ khốn cùng (Thi thiên 41:1–3) thể hiện lòng trung tín của dân sự Ngài với Đức Chúa Trời. Đối đãi tàn ác với những người cô thế và yếu kém là những tội lỗi đặc biệt ghê tởm trong văn hóa Kinh Thánh (Phục-truyền 15:7–11). Các bài Thi thiên cảm kích những người trung tín lên tiếng chống đối mọi áp bức. Thi thiên cũng nhấn mạnh sự vô ích của việc đặt niềm tin vào những điều dễ hư mất mà lại cứ cho rằng đó là nguồn của sự khôn ngoan và an ninh tuyệt đối. Dân sự Đức Chúa Trời phải chống lại sự cám dỗ của việc đặt niềm tin cứu rỗi vào các nhà lãnh đạo và thể chế loài người, nhất là khi chúng đi khác với đường lối của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Giê-su, trong ân điển Ngài, đã xác định chính mình với người nghèo bằng cách chính Ngài trở nên nghèo, để nhờ sự nghèo khó của Ngài mà nhiều người có thể trở nên giàu có (2 Cô-rinh-tô 8:9). Sự giàu có của Đấng Christ bao gồm sự giải cứu khỏi mọi áp bức do tội lỗi gây ra, và Ngài hứa cho chúng ta sự sống đời đời trong vương quốc của Đức Chúa Trời (Khải huyền 21:4). Đức Chúa Giê-su Christ làm ứng nghiệm những lời hứa trong Thi thiên như là Quan án thiêng liêng, Đấng sẽ phán xét mọi hành vi ngược đãi những người khốn cùng, cũng như việc lơ là bổn phận đối với họ (Ma-thi-ơ 25:31–46).

Chúng ta có nghĩ đến những người “thiếu thốn và khốn cùng” trong vòng chúng ta không, và chúng ta đã làm được gì cho họ?

Đức Chúa Trời đã ban cho các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên quyền duy trì công lý trong Y-sơ-ra-ên (Thi thiên 72:1−7; 12−14). Các vua Y-sơ-ra-ên phải thi hành quyền hành của họ theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Mối quan tâm chính của các nhà lãnh đạo là phải đảm bảo hòa bình và công lý trên đất nước và quan tâm đến những người thiệt thòi trong xã hội. Chỉ khi đó đất nước và toàn dân mới thịnh vượng. Ngai của vua sẽ được vững vàng bởi sự tín trung với Đức Chúa Trời chớ không phải bởi quyền lực loài người.

Đọc Thi thiên 82. Điều gì xảy ra khi các nhà lãnh đạo bóp méo công lý và đàn áp những người mà họ có nhiệm vụ bảo vệ?

Trong Thi thiên 82, Đức Chúa Trời công bố sự phán xét của Ngài trên các quan án tham nhũng của Y-sơ-ra-ên. “Các thần” (Thi thiên 82:1, 6) rõ ràng không phải là các vị thần ngoại giáo cũng không phải là thiên thần, bởi vì họ không bao giờ được giao nhiệm vụ thực thi công lý cho dân sự của Đức Chúa Trời và vì vậy không thể bị xét xử khi họ không làm tròn chức vụ. Những lời buộc tội được liệt kê trong Thi thiên 82:2−4 lặp lại các luật của Kinh Thánh, xác định “các thần” là những người lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên (Phục truyền Luật lệ Ký 1:16−18; Phục truyền Luật lệ Ký 16:18−20; Giăng 10:33–35). Đức Chúa Trời chất vấn những “con trai loài người” liệu họ có phán xét công bằng hay không, và hình phạt dành cho họ được công bố vì họ bị coi là bất chính. Những người lãnh đạo lạng quạng trong sự tối tăm mà không biết (Thi thiên 82:5), bởi vì họ đã từ bỏ luật pháp của Đức Chúa Trời, là ánh sáng (Thi thiên 119:105). Kinh Thánh kiên quyết ủng hộ quan điểm rằng Đức Chúa Trời là Chúa duy nhất. Ngài chia xẻ quyền cai trị thế gian của Ngài với các nhà lãnh đạo loài người được bổ nhiệm làm đại diện cho Ngài (Rô-ma 13:1). Tuy nhiên, những đại diện loài người này, trong lịch sử và ngay cả bây giờ, có thường xuyên làm sai trách nhiệm được giao phó không? Thi thiên 82 vạch trần sự bội đạo của một số nhà lãnh đạo tự cho mình là “thần” cao hơn người khác. Mặc dù Đức Chúa Trời đã ban thẩm quyền và đặc ân cho các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên, rằng họ được gọi là “con của Đấng Chí Cao” và để họ đại diện cho Ngài, nhưng Đức Chúa Trời chối bỏ những nhà lãnh đạo độc ác. Chúa nhắc nhở họ rằng họ là người phàm và phải tuân theo các quy tắc đạo đức giống như tất cả mọi người. Không ai cao hơn Luật pháp của Đức Chúa Trời (Thi thiên 82:6–8). Chúa sẽ phán xét toàn thế giới; dân sự của Đức Chúa Trời cũng phải khai trình với Ngài. Cả những người lãnh đạo lẫn thường dân nên noi theo gương của Đấng Phán xét thiêng liêng và đặt niềm hy vọng tối thượng nơi Ngài.

Bạn có loại thẩm quyền nào đối với người khác? Bạn thực thi thẩm quyền đó một cách chính đáng và công bằng ra sao? Hãy chú ý nhé.

Đọc Thi Thiên 58:6–8; 69:22–28; 83:9–17; 94:1, 2; và Thi Thiên 137:7– 9. Những bài Thi-thiên này truyền đạt những cảm nghĩ nào? Ai là nhân vật phán xét trong các Thi thiên này?

Một số Thi thiên cầu xin Đức Chúa Trời báo thù trên những cá nhân và quốc gia cố tình làm hại hoặc đã làm hại những người viết Thi thiên hoặc dân tộc của họ. Những bài Thi thiên này nghe có vẻ khó hiểu vì ngôn ngữ gay gắt và xem như là không phù hợp với nguyên tắc yêu thương kẻ thù nghịch trong Kinh Thánh (Ma-thi-ơ 5:44). Dầu vậy, sự phẫn nộ của tác giả trước sự áp bức là một điều tốt. Nó có nghĩa là các tác giả Thi thiên nghiêm túc về những gì đúng và sai hơn bao người khác. Họ quan tâm nhiều về các điều ác đã xảy ra trên thế gian, không chỉ với bản thân họ mà còn với những người khác. Tuy nhiên, không nơi nào tác giả Thi thiên gợi ý tự cho mình là tác nhân (agent) của sự báo thù. Thay vào đó, tác giả để sự trừng phạt hoàn toàn trong tay Chúa. Thi thiên gợi lại những lời rủa sả của giao ước thiêng liêng (Phục truyền Luật lệ Ký 27:9−16) và cầu khẩn Đức Chúa Trời hành động như Ngài đã hứa. Các Thánh thi không chỉ là lời cầu nguyện của tác giả mà cũng là những lời tiên tri công bố sự phán xét của Đức Chúa Trời sắp đến. Thi thiên 137 phản ảnh những thông báo về sự phán xét của Đức Chúa Trời trên Ba-by-lôn, như đã thấy trong các tiên tri. Sự tàn phá mà người Ba-by-lôn mang đến cho các quốc gia khác sẽ đổ lại trên họ. Các bài Thi thiên đưa ra những lời cảnh báo của Đức Chúa Trời rằng điều ác sẽ không thể tiếp tục mãi mãi mà không bị trừng phạt. Sự trừng phạt của Đức Chúa Trời được đo bằng công lý và ân điển. Con cái Đức Chúa Trời được kêu gọi cầu nguyện cho những người ngược đãi họ và thậm chí hy vọng họ sẽ cải đạo (Thi thiên 83:18, Giê-rê-mi 29:7). Tuy nhiên, trong khi tìm cách làm cho các Thi thiên này phù hợp với các tiêu chuẩn trong Kinh Thánh về tình yêu thương dành cho kẻ thù, chúng ta phải cẩn thận để không giảm đi những kinh nghiệm đau thương thể hiện trong đó. Đức Chúa Trời nhận biết sự đau khổ của con cái Ngài và cam đoan với họ rằng “Sự chết của các thánh đồ là quý giá trước mặt Đức Giê-hô-va” (Thi thiên 116:15). Sự phán xét thiêng liêng buộc dân sự của Đức Chúa Trời phải lên tiếng chống lại mọi điều ác và tìm kiếm nước Đức Chúa Trời trong sự trọn vẹn của nó. Thi thiên cũng cho những người đau khổ tiếng nói, giúp họ hiểu rằng Đức Chúa Trời biết đến sự đau khổ của họ và một ngày nào đó công lý sẽ đến.

Ai đã chẳng từng có lúc suy nghĩ và tưởng tượng đến việc trả thù những kẻ đã hãm hại họ hoặc người thân yêu họ. Các bài Thi thiên này có thể giúp bạn đổi cảm xúc ấy theo chiều hướng đúng đắn ra sao?

Đọc Thi thiên 96:6–10; 99:1–4; và Thi thiên 132:7–9, 13–18. Sự phán xét của Đức Chúa Trời diễn ra ở đâu, và câu trả lời có hàm ý gì đối với chúng ta? Nơi thánh giúp chúng ta hiểu cách Đức Chúa Trời sẽ đối phó với điều ác như thế nào?

Sự phán xét của Đức Chúa Trời liên quan mật thiết đến nơi thánh. Tại đây sự hiểu biết của tác giả Thi thiên về vấn đề điều ác được thay đổi (Thi thiên 73:17–20). Nơi thánh được chỉ định là nơi phán xét thiêng liêng như chúng ta biết bởi sự phán xét của u-rim (Dân số Ký 27:21) và bởi bảng đeo ngực về sự xét đoán của thầy tế lễ thượng phẩm (Xuất 28:15, 28–30). Theo đó, nhiều Thi thiên miêu tả Đức Chúa Trời trên ngai của Ngài trong đền thánh sẵn sàng phán xét thế gian về tội lỗi và sự gian ác của nó. Tại nơi thánh, kế hoạch cứu rỗi đã được tiết lộ. Trong ngoại giáo, tội lỗi được hiểu cách chủ yếu như một vết bẩn thể xác, cần được loại bỏ bằng các nghi thức ma thuật. Ngược lại, Kinh Thánh trình bày tội lỗi là sự vi phạm luật đạo đức của Đức Chúa Trời. Sự thánh khiết của Chúa có nghĩa là Ngài yêu thích công bình và chính trực. Tương tự như vậy, dân của Đức Chúa Trời nên theo đuổi sự công bình và chính trực, và nên thờ phượng Đức Chúa Trời trong sự thánh khiết của Ngài. Để làm được điều đó, họ phải tuân giữ luật pháp của Đức Chúa Trời, là điều bày tỏ sự thánh khiết của Ngài. Vậy nên, đền thánh là nơi tha thứ tội lỗi và phục hồi sự công bình như được biểu lộ bởi ngai thương xót của Đức Chúa Trời và “của tế lễ công bình” (Phục truyền Luật lệ Ký 33:19, Thi thiên 4:5). Tuy nhiên, “Đức-Chúa-Trời-Đấng-Tha-Thứ” sẽ báo thù những việc làm gian ác của những người không ăn năn (Thi thiên 99:8). Nhận thức về sự thánh khiết của Đức Chúa Trời và sự đòi hỏi phải sống cách ngay thẳng đúng theo các điều kiện của giao ước Đức Chúa Trời chính là ý nghĩa thực tế về đền thánh — nơi phán xét của Đức Chúa Trời. Sự phán xét của Chúa từ Si-ôn dẫn đến sự thịnh vượng của người công bình và sự thất bại của kẻ ác (Thi thiên 132:13–18). Đền thánh nuôi dưỡng niềm hân hoan trong sự hy vọng về sự tái lâm của Chúa như là Quan Án, đặc biệt trong Ngày Đại Lễ Chuộc Tội. Tương tự như vậy, các Thi thiên củng cố sự chắc chắn về sự xuất hiện sắp đến của Đấng Phán xét thiêng liêng (Thi thiên 96:13; 98:9) —chính là Đức Chúa Giê-su Christ tại đền thánh trên trời (Khải huyền 11:15–19).

Đọc Rô-ma 8:34. Làm thế nào câu Kinh Thánh này chỉ cho chúng ta thấy rằng những gì Đấng Christ đang làm tại Đền Thánh trên trời là tin mừng cho dân sự Ngài?

Đọc Ellen G. White, “The Beatitudes” trang 6–13, 29–35, Thoughts From the Mount of Blessing. Thi thiên là những lời phản kháng chống lại sự thờ ơ của con người trước sự bất công; đó chính là sự từ chối chấp nhận điều ác. Các bài Thi thiên được thôi thúc, không phải vì muốn trả thù mà vì lòng sốt sắng muốn làm vinh hiển danh Đức Chúa Trời. Do đó những người công bình vui mừng khi họ sẽ thấy sự báo thù của Đức Chúa Trời đối với điều ác, bởi vì có như vậy danh Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài được phục hồi trên thế gian (Thi thiên 58:10, 11). Các bài Thi thiên buộc người ta phải lên tiếng chống lại điều ác và tìm kiếm sự viên mãn của Nước Đức Chúa Trời. Trong Thi thiên, chúng ta được bảo đảm về sự an ủi và giải cứu thiêng liêng. Đức Giê-hô-va sẽ trỗi dậy! Đức Chúa Giê-su phán: “Khi người ta sỉ nhục và bắt bớ các ngươi, hãy vui mừng, và dốc lòng mừng rỡ.” Và Ngài chỉ cho những kẻ nghe Ngài về các vị tiên tri, những người đã làm chứng về danh Ngài, “các đấng tiên tri đã nhân danh Chúa mà nói, làm mẫu mực về sự chịu khổ và nhịn nhục cho mình”(Gia-cơ 5:10). A-bên, Cơ Đốc nhân đầu tiên trong số các con của A-đam, đã tử vì đạo. Hê-nóc bước đi với Đức Chúa Trời, và thế gian không biết đến ông. Nô-ê bị chế giễu là một kẻ cuồng tín và là kẻ hay gieo hoang mang sợ hãi . ‘Những người khác đã bị thử thách với những lời nhạo báng và đánh đập dã man, phải, và còn hơn nữa, họ bị xiềng xích và bỏ tù.’ ‘Những người khác bị tra tấn, không chấp nhận sự giải cứu; để được sự sống lại tốt hơn.’ Hê-bơ-rơ 11:35, 36.”—Ellen G. White, Thoughts From the Mount of Blessing, tr. 33.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

1. Một người có thể vì quá đau đớn khi nhận thức được quá nhiều điều ác xảy ra trên thế gian và tự hỏi liệu Chúa có thực sự trị vì hay không – làm sao chúng ta có thể gầy dựng một đức tin không thể lay chuyển để đứng vững ngay cả khi bị cám dỗ? Chúng ta phải tập trung vào điều gì để duy trì niềm tin vào tình yêu thương, sự tốt lành và quyền năng của Đức Chúa Trời? Thập giá nói gì với chúng ta về Đức Chúa Trời và đặc tính của Ngài?

2. Tại sao đó là điều quan trọng khi chúng ta không tuỳ thuộc vào các phương tiện của loài người (các nhà lãnh đạo, thể chế và phong trào xã hội) để tìm sự khôn ngoan và giải pháp tối hậu cho công lý trên thế gian mà chỉ dựa vào Lời Đức Chúa Trời và sự phán xét của Ngài?

3. Kinh Thánh cho chúng ta biết đền thánh là nơi phán xét của Đức Chúa Trời, ý nghĩa thiết thực của lẽ thật này là gì?

4. Làm sao chúng ta có thể hiểu được ngôn ngữ gay gắt của một số bài Thi thiên? Loại ngôn ngữ ấy giúp chúng ta thông cảm ra sao với tính nhân văn của những tác giả đã viết chúng?

Bài Học 5, 27 Tháng 2 — 2 Tháng 2

Hát Bài Ca Của Đức Giê-hô-va Trên Đất Lạ

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Thi thiên 79:5–13; Thi thiên 88:3–12; Thi thiên 69:1–3; Thi thiên 22:1; Thi thiên 77; Thi thiên 73:1–20; 1 Phi-e-rơ 1:17.

CÂU GỐC: “Trên đất ngoại bang, Chúng tôi làm sao hát được bài ca của Đức Giê-hô-va”(Thi Thiên 137:4).

Đọc Thi thiên 74:18–22 và 79:5–13. Điều gì đang bị đe dọa ở đây?

 

Tác giả Thi thiên nhận biết được cuộc đấu tranh cam go giữa Đức Chúa Trời và các quyền lực của ma quỷ, và ông nêu ra lòng kiên nhẫn vô lường của Đức Chúa Trời, cũng như sự khôn ngoan và quyền năng vô hạn của Ngài.

Vấn đề điều ác trong các bài Thi thiên chủ yếu là thần học; nó luôn liên quan đến các câu hỏi về Đức Chúa Trời. Vì vậy, việc Giê-ru-sa-lem và đền thờ bị phá hủy được coi là một tai tiếng thiêng liêng vì nó tạo cơ hội cho những người ngoại giáo xúc phạm đến Đức Chúa Trời. Cơ nghiệp của Chúa (dân Y-sơ-ra-ên) là dấu hiệu của sự lựa chọn và giao ước thiêng liêng của Ngài (Phục truyền 4:32−38, Phục truyền 32:8, 9), là điều sẽ không bao giờ thất bại. Khái niệm về cơ nghiệp của Đức Chúa Trời cũng có tính chất của thời kỳ cuối cùng, vì một ngày nào đó tất cả các quốc gia sẽ trở thành cơ nghiệp của Đức Chúa Trời và sẽ phục vụ Ngài. Vì thế quan điểm cho rằng các quốc gia xâm chiếm cơ nghiệp của Đức Chúa Trời là không phù hợp với những lời hứa thiêng liêng này.

Tác giả Thi thiên công nhận rằng tội lỗi của con người đã làm băng hoại mối liên hệ giao ước giữa họ với Đức Chúa Trời và mang đến mọi hậu quả cho họ (Thi thiên 79:8, 9). Sự sống còn của con người tùy thuộc duy nhất trên sự can thiệp nhân từ của Đức Chúa Trời, và sự khôi phục mối ràng buộc giao ước thông qua sự chuộc tội. Đức Giê-hô-va là “Chúa cứu rỗi chúng ta,” truyền đạt sự thành tín của Đức Chúa Trời đối với các lời hứa giao ước của Ngài (Thi thiên 79:9).

Tuy nhiên, điều quan trọng hơn việc phục hồi vận mệnh của Y-sơ-raên là bảo vệ cá tính của Đức Chúa Trời trên thế gian (Thi thiên 79:9). Nếu những hành động gian ác của các quốc gia không bị trừng phạt, thì có vẻ như Đức Chúa Trời đã mất uy quyền của Ngài (Thi thiên 74:18–23; 83:1618; 106:47). Chỉ khi nào Đức Chúa Trời cứu vớt dân Ngài thì danh Ngài mới được xưng công bình và tôn cao.

Nguyên tắc này hiện hữu thời trước cũng như thời nay. Tội lỗi, sự sa ngã, sự xấu xa của chúng ta có thể mang tiếng xấu đến không chỉ cho chính bản thân, nhưng tệ hơn nữa, cho cả Đức Chúa Trời, Đấng mà chúng ta xưng tụng. Những hành động sai trái của chúng ta có thể gây nên những ảnh hưởng thuộc linh bất lợi cho việc làm chứng và sứ mệnh của chúng ta. Bao nhiêu người đã quay lưng trước sự tin kính của chúng ta chỉ vì những hành động không hay của những người xưng là theo Chúa?

“Danh dự của Đức Chúa Trời, danh dự của Đấng Christ, liên quan đến sự hoàn hảo cá tính của dân sự Ngài.”—Ellen G. White, The Desire of Ages, tr. 671. Bạn có hiểu lẽ thật quan trọng này như thế nào, và nó có ý nghĩa gì trong đời sống Cơ đốc nhân của bạn?

Đọc Thi thiên 41:1–4; Thi thiên 88:3–12; và Thi thiên 102:3–5, 11, 23, 24. Những câu Kinh Thánh này mô tả những kinh nghiệm nào? Với những điều được nói ở đây, bạn hiểu như thế nào?

Những lời cầu nguyện xin được cứu khỏi bệnh tật và cái chết chứng tỏ rằng con cái của Đức Chúa Trời không được miễn khỏi những đau khổ của thế gian này. Các bài Thánh thi tiết lộ những đau đớn kinh khủng của tác giả. Ông đã cạn sức, khô héo như cỏ, không thể ăn, da bọc xương, bị bỏ chung với người chết, nằm như kẻ bị giết trong mồ, bị bạn bè ghê tởm, đau khổ và tuyệt vọng.

Nhiều bài Thi thiên cho rằng vì sự bất tuân của Y-sơ-ra-ên, nên Đức Chúa Trời đã cho phép những rắc rối xảy ra. Tác giả công nhận rằng tội lỗi có thể mang đến bệnh tật; do đó, ông đề cập đến sự tha thứ đi trước sự chữa lành (Thi thiên 41:3, 4). Tuy nhiên, một số bài Thi thiên khác, chẳng hạn như Thi thiên 88 và 102, thừa nhận rằng sự đau khổ vô cớ của dân sự Đức Chúa Trời, dầu khó hiểu đến đâu, là một thực tế của cuộc đời.

Trong Thi thiên 88, Đức Chúa Trời bị buộc trách nhiệm đã đưa tác giả đến bờ vực cái chết (Thi thiên 88:6-8). Tuy nhiên, chúng ta cũng lưu ý rằng ngay cả khi những lời phàn nàn táo bạo nhất được thốt ra, thì lời than thở vẫn rõ ràng là một hành động của đức tin, vì nếu Chúa với quyền trị vì của Ngài cho phép các rắc rối xảy ra, thì Ngài có thể phục hồi sự tốt lành cho con cái Ngài.

Trước cửa mộ, tác giả nhớ lại những điều kỳ diệu, sự nhân từ, thành tín và công bình của Đức Chúa Trời (Thi thiên 88:10-12). Bất chấp cảm nhận bị Chúa đánh ngã, tác giả vẫn bám lấy Ngài. Dù đau khổ nhưng ông không phủ nhận tình yêu của Chúa và biết rằng Chúa là sự cứu rỗi duy nhất của mình. Những lời cầu xin này cho thấy rằng tác giả Thi thiên không chỉ biết đau khổ mà còn có một sự hiểu biết sâu sắc về ân điển của Đức Chúa Trời và cả hai điều ấy không nhất thiết phải loại trừ nhau.

Tóm lại, việc Đức Chúa Trời cho phép cả đau khổ lẫn sự giải cứu của Ngài xảy ra đã thể hiện quyền trị vì tối cao của Ngài. Biết được rằng mọi sự việc đều ở dưới quyền kiểm soát của Đức Chúa Trời gợi cho chúng ta niềm hy vọng. Khi đọc Thi thiên 88 dưới ánh sáng đau khổ của Đấng Christ, chúng ta sẽ kinh ngạc trước chiều sâu của tình yêu thương của Ngài, trong đó Ngài sẵn sàng bước qua cửa sự chết vì lợi ích của nhân loại.

Hãy nghĩ về Đức Chúa Giê-su trên thập giá và những đau đớn Ngài cam chịu vì tội lỗi. Làm thế nào thực tế đó, rằng Đức Chúa Trời trong Đấng Christ chịu đau đớn nhiều hơn bất kỳ ai trong chúng ta, giúp chúng ta giữ vững đức tin ngay cả trong những lúc đau khổ và thử thách?

Đọc Thi thiên 42:1–3, Thi thiên 63:1, Thi thiên 69:1–3 và Thi thiên 102:1−7. Điều gì gây ra nỗi đau lớn cho tác giả?

Tác giả Thi thiên không chỉ lo lắng về những đau khổ cá nhân và cộng đồng, mà hơn vậy nữa, ông cũng bận lòng vì dường như Đức Chúa Trời không quan tâm đến những khó khăn của các tôi tớ Ngài. Sự vắng mặt của Đức Chúa Trời giống như cơn khát dữ dội trên đất khô cằn (Thi thiên 42:1–3; 63:1) hoặc như nỗi thống khổ chết người (Thi thiên 102:2–4). Tác giả cảm thấy xa cách với Đức Chúa Trời và so sánh mình như những con chim lẻ loi. “Tôi giống như một con bồ nông của vùng hoang dã; khác nào con cú ở chốn bỏ hoang. Tôi thao thức, như chim sẻ quạnh hiu trên mái nhà” (Thi thiên 102:6, 7).

Việc đề cập đến nơi đồng không mông quạnh làm nổi bật cảm giác bị cô lập khỏi Đức Chúa Trời. Con chim “một mình trên mái nhà” là ở bên ngoài tổ ấm, nơi nghỉ ngơi của nó. Tác giả Thi thiên kêu cầu Đức Chúa Trời “từ vực sâu,” như thể bị nhấn chìm bởi dòng nước mạnh và chôn vào “bùn sâu” (Thi thiên 69:1–3; Thi thiên 130:1). Những hình ảnh này mô tả một tình huống ngột ngạt không có lối thoát, ngoại trừ sự can thiệp thiêng liêng.

Đọc Thi thiên 10:12; 22:1; 27:9 và 39:12. Tác giả phản ứng thế nào trước sự vắng mặt rõ ràng của Đức Chúa Trời?

Điều đáng chú ý là các tác giả Thi thiên quyết định không giữ im lặng trước sự im lặng của Đức Chúa Trời. Họ vững tin vào lời cầu nguyện, vì lời cầu nguyện hướng về Đức Chúa Trời hằng sống và nhân từ. Chúa vẫn ở đó, ngay cả khi Ngài dường như vắng mặt. Ngài vẫn là Đức Chúa Trời, Đấng đã nghe họ trong quá khứ, và vì vậy họ tin chắc rằng Ngài đang nghe họ trong hiện tại.

Những dịp Đức Chúa Trời im lặng cho cơ hội các tác giả xem xét lại chính mình và tìm kiếm Đức Chúa Trời qua sự xưng tội và những lời cầu xin khiêm nhường. Họ biết rằng Chúa sẽ không im lặng mãi mãi. Các bài Thánh thi chứng minh rằng sự giao tiếp với Đức Chúa Trời phải tiếp tục, bất kể hoàn cảnh cuộc đời ra sao.

Chúng ta có thể học được gì từ phản ứng của tác giả Thi thiên trước sự vắng mặt của Đức Chúa Trời? Bạn phản ứng thế nào trước những lúc Chúa dường như im lặng? Điều gì duy trì đức tin của bạn?

Đọc Thi thiên 77. Tác giả đang trải qua kinh nghiệm nào?

Thi thiên 77 bắt đầu với lời cầu xin Chúa giúp đỡ, một lời cầu xin chứa đầy than thở và đớn đau khi tác giả tưởng về quá khứ (Thi thiên 77:1–6). Toàn phần cơ thể tác giả hướng về Đức Chúa Trời cách sầu thãm. Ông từ chối được an ủi bởi bất kỳ sự giải thoát nào ngoại trừ sự giải cứu đến từ Đức Chúa Trời.

Tuy nhiên, việc tưởng nhớ đến Chúa dường như càng làm tăng thêm nỗi thống khổ của ông. “Khi nhớ đến Đức Chúa Trời, tôi bối rối, rên siết” (Thi thiên 77:3). Trong tiếng Hê-bơ-rơ, từ hamah “rên siết” thường miêu tả tiếng gầm thét của dòng nước dữ dội (Thi thiên 46:3).Tương tự như vậy, toàn bộ con người của tác giả đang ở trong tình trạng xao động kinh hoàng.

Làm sao việc tưởng nhớ đến Đức Chúa Trời lại có thể tạo ra cảm giác cuồng đau như vậy? Một loạt các câu hỏi bất an tiết lộ nguyên nhân khiến ông đau khổ (Thi thiên 77:7–9): Phải chăng Đức Chúa Trời đã đổi thay? Liệu Đức Chúa Trời có thể phản bội giao ước của Ngài không?

Sự tương phản rõ rệt giữa các hành động cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong quá khứ và sự vắng mặt rõ ràng của Đức Chúa Trời trong hiện tại khiến tác giả cảm thấy như mình đã bị Chúa bỏ rơi. Nếu Đức Chúa Trời đã đổi thay, thì tác giả có còn hy vọng gì nữa đâu, một kết luận mà ông không muốn chấp nhận.

Trong khi đó, tác giả Thi thiên không ngủ được vì Chúa khiến ông thao thức (Thi thiên 77:4). Điều này gợi nhớ lại những nhân vật khác trong Kinh Thánh mà chứng mất ngủ của họ đã được Đức Chúa Trời sử dụng một cách thần kỳ để tiến hành các mục đích của Ngài (Sáng thế Ký 41:1−8, Ê-xơ-tê 6:1, Đa-ni-ên 2:1−3). Những đêm dài trằn trọc khiến tác giả suy gẫm về những lần trong quá khứ khi Đức Chúa Trời đã ra tay giải cứu – và ông có một quyết tâm mới (Thi thiên 77:5, 10).

Trong sự cam đoan mà tác giả Thi thiên nhận được từ Đức Chúa Trời, không có lời giải thích về hoàn cảnh cá nhân của ông, nhưng đúng hơn, đó là một xác nhận về sự thành tín và đáng tin cậy của Đức Chúa Trời (như Gióp). Tác giả được khuyến khích hãy chờ đợi Chúa trong đức tin, vì ông biết rằng Ngài là Đức Chúa Trời, Đấng đã thực hiện các phép lạ trong quá khứ của Y-sơ-ra-ên (Thi thiên 77:11–18). Tác giả ý thức được rằng “Bước chân của Chúa không ai biết đến” (Thi thiên 77:19), ông cũng công nhận sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời, ngay cả trong những tình huống mà mắt thường của con người không thể thấy rõ sự hiện diện của Ngài. Tác giả thừa nhận rằng Đức Chúa Trời cùng một lúc được bày tỏ và ẩn giấu, vì vậy ông ca ngợi đường lối bí ẩn và tối cao của Ngài.

Hãy tưởng về những lần trong quá khứ, khi Chúa làm việc trong cuộc đời chúng ta. Sự thật ấy có thể giúp chúng ta đương đầu với bất cứ hoàn cảnh nào ra sao?

Đọc Thi thiên 37:1, 8; Thi thiên 49:5–7; Thi thiên 94:3–7; và Thi thiên 125:3. Tác giả Thi thiên phải đối mặt với sự tranh đấu nào?

Nhiều bài Thi thiên than thở về sự thịnh vượng hiện tại của kẻ ác và thực tế này là một thách thức cho người công chính. Kẻ ác không những thịnh vượng mà có khi còn công khai coi thường Đức Chúa Trời và áp bức người khác. Vấn đề khó hiểu là trong khi “gậy của kẻ ác” (Thi thiên 125:3) thống trị thế giới, thì “vương trượng của công lý” (Thi thiên 45:6) dường như thất bại. Vậy tại sao không bỏ cuộc đi, rồi ôm lấy điều ác như những người khác vẫn làm?

Đọc Thi thiên 73:1–20, 27. Điều gì giúp tác giả vượt qua cơn khủng hoảng? Sự cuối cùng của những người tin tưởng vào những điều vô ích là gì? (Cũng xem 1 Phi-e-rơ 1:17).

Khi tác giả Thi thiên 73 mãi chú tâm vào sự bất công hiện tại trên thế giới, ông không thể nhìn thấy bức tranh lớn từ quan điểm của Đức Chúa Trời. Sự thịnh vượng của điều ác khiến đức tin ông dao động; ông cũng tin rằng ý tưởng mà ông nghĩ về sự vô ích của đức tin là dựa trên thực tế. Tuy nhiên, Thi thiên 73 cho thấy rằng “những điều này nhạo báng những ai bỏ qua câu đầu tiên của bài Thi thiên này, là phần tóm tắt của cả trọn bài: ‘Đức Chúa Trời đối đãi Y-sơ-ra-ên thật tốt lành biết bao, Tức là những người có lòng trong sạch’.”—Johannes Bugenhagen, Refomation Commentary on Scripture (Downs Grove, IL: InterVarsity Press, 2018), tr. 11.

Tác giả được dẫn đến đền thánh, nơi cai trị tối cao của Đức Chúa Trời, và ở đó ông được nhắc nhở rằng “hôm nay” chỉ là một phần của bức tranh khảm, và ông nên xem xét “sự cuối cùng”, khi kẻ ác sẽ đối mặt với sự phán xét của Đức Chúa Trời. Việc tác giả hiểu lẽ thật này trong đền thánh và thú nhận sự điên rồ trước đây của mình cho thấy rằng thực tế chỉ có thể được thấu hiểu với sự hiểu biết thuộc linh chứ không phải bằng lý luận của con người.

Lời hứa về sự phán xét của Đức Chúa Trời trên thế gian và những gian ác của nó có thể mang lại cho bạn niềm an ủi thế nào khi quá nhiều tội ác hiện thời không bị trừng phạt?

 

NGHIÊN CỨU BỔ TÚC: Đọc Thi thiên 56; Ellen G. White, “Vui Mừng Trong Chúa”, trang 99-109, Con Đường Giải Thoát (bản Việt ngữ).

Giống như những người viết Thi thiên, dân sự của Đức Chúa Trời ở mọi thời đại thường tự hỏi làm thế nào để hát những bài ca của Chúa ở “xứ lạ”. Đức tin của chúng ta nơi sự cai trị tối cao của Chúa đôi khi bị thử thách nghiêm trọng, và chúng ta có lúc tự hỏi có thật là mọi điều ở dưới sự kiểm soát của Đức Chúa Trời chăng, và Ngài là Đấng quyền năng và tốt lành như Kinh Thánh nói hay không.

Đức tin trong Thánh Kinh thường ngụ ý sự không chắc chắn và căng thẳng cũng như sự tự tin và quả quyết. Đôi khi sự không chắc chắn và hồi hộp, đặc biệt là khi đối mặt với điều ác và sự dường như vắng mặt của Đức Chúa Trời có thể khiến chúng ta thấy gần như không chịu nỗi. Tuy nhiên, chúng ta không bao giờ nên có sự không chắc chắn về Đức Chúa Trời, về bản chất yêu thương, về sự công bình và đáng tin cậy của Ngài. Các tác giả Thi thiên có thể không chắc chắn về tương lai, nhưng họ thường kêu cầu tình yêu và sự thành tín không bao giờ thay đổi của Đức Chúa Trời (Thi thiên 36:5–10; 89:2, 8).

Cũng như vậy, chúng ta hãy theo gương của họ. “Hãy tập trung tất cả sức mạnh của bạn để ngước nhìn lên, đừng chùn bước trước những khó khăn; thì bạn sẽ không bao giờ ngã lòng. Bạn sẽ sớm nhìn thấy Chúa Giêsu đằng sau đám mây, dang tay ra để giúp đỡ bạn; và tất cả những gì bạn phải làm là, với đức tin đơn sơ, bạn đưa tay cho Ngài để Ngài dẫn dắt bạn. Khi bạn tin cậy nơi Ngài, bạn sẽ trở nên đầy hy vọng.”—Ellen G. White, Testimonies for the Church, tập. 5, tr. 578, 579.

Những lúc Đức Chúa Trời “ẩn mặt” không làm giảm hiệu quả của lời cầu nguyện. Ngược lại, những dịp này khiến các tác giả Thi thiên tự xét mình, nhớ lại những hành động cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong quá khứ, và tìm kiếm Đức Chúa Trời bằng sự xưng tội và những lời cầu xin khiêm nhường (Thi thiên 77:10–12; 89:46−52). “Đức tin phát triển mạnh mẽ khi chúng ta có sự xung đột với những nghi ngờ và ảnh hưởng đối lập. Kinh nghiệm thu được trong những thử thách này có giá trị hơn những ngọc ngà quý giá.” Ellen G. White, Testimonies for the Church, tập. 3, tr. 555.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

1. Hãy thảo luận câu trả lời cho câu hỏi cuối cùng trong bài học hôm thứ ba về việc tin cậy Đức Chúa Trời giữa nghịch cảnh và khi mọi điều trở nên quá khó khăn. Chúng ta hiểu thế nào những điều này, và làm sao chúng lại có thể xảy ra khi mà chúng ta có những lời hứa tuyệt vời trong Thi thiên về sự bảo vệ của Đức Chúa Trời? Cũng hãy suy nghĩ về điều này: chẳng phải người viết Thi-thiên, người đã viết về những lời hứa tuyệt vời đó, cũng phải chịu nghịch cảnh hay sao?

2. Làm sao chúng ta có thể phát triển lòng tin cậy hoàn toàn nơi Đức Chúa Trời trong mọi hoàn cảnh (ví dụ, Thi thiên 91:14; Thi thiên 143:8, 10; Thi thiên 145:18–20)? Điều gì có thể khiến chúng ta mất đi sự tin cậy này? Tại sao tin cậy nơi Thượng Đế trong những lúc thuận lợi là quan trọng để chúng ta học cách tin cậy Ngài trong những lúc bất lợi?

Bài Học 4, 20 — 26 Tháng 1

Đức Giê-Hô-Va Nghe Và Giải Cứu

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Thi thiên 139:1–18; Thi thiên 121; 17:8; Ma-thi-ơ 23:37; 1 Cô-rinh-tô 10:1–4; Hê-bơ-rơ 4:15, 16.

CÂU GỐC: “Người công bình kêu cầu, Đức Giê-hô-va bèn nghe, Và giải cứu họ khỏi các sự gian truân” (Thi thiên 34:17).

 

Đọc Thi thiên 139:1–18. Bài thánh thơ này mô tả ra sao quyền năng (Thi thiên 139:1−6), sự hiện diện (Thi thiên 139:7−12) và lòng nhân từ (Thi thiên 139:13−18) của Đức Chúa Trời? Sự vĩ đại của Đức Chúa Trời nói gì về những lời hứa của Ngài?

Có bao giờ bạn muốn giúp đỡ ai đó nhưng không có điều kiện? Tương tự như vậy, cũng có người cố gắng giúp bạn nhưng không hiểu nhu cầu của bạn. Đức Chúa Trời không phải vậy, Ngài hoàn toàn hiểu biết chúng ta, đồng thời cũng có quyền năng để giúp đỡ. Vì thế, những lời hứa giúp đỡ và giải cứu của Ngài không phải là những lời sáo rỗng nông cạn mà là những lời cam đoan chắc chắn.

Đức Chúa Trời biết về tác giả Thi thiên quá sâu đậm và độc đáo đến nỗi ngay cả trong lòng mẹ ông cũng không thể giấu khỏi Đức Chúa Trời (Thi thiên 139:13, 15). Sự hiểu biết thiêng liêng này liên quan đến thời gian (Thi thiên 139:2), không gian (Thi thiên 139:3) và nội tâm con người (Thi thiên 139:2, 4)—toàn bộ sự hiện hữu của tác giả. Kiến thức tuyệt vời này của Đức Chúa Trời là kết quả của sự sáng tạo và sự giao tiếp gần gũi của Ngài với con người và được thể hiện qua sự chăm sóc của Ngài đối với họ.

Lẽ thật diệu kỳ này về việc Đức Chúa Trời biết chúng ta một cách mật thiết không nên làm chúng ta sợ hãi mà thay vào đó, nên đưa chúng ta vào vòng tay của Đức Chúa Giê-su và những gì Ngài đã hoàn thành cho chúng ta trên thập giá. Vì bởi đức tin nơi Đức Chúa Giê-su, chúng ta đã được ban cho sự công bình của Ngài, “sự công bình của chính Đức Chúa Trời” (Rô-ma 3:5, 21).

Lời mô tả rằng Đức Chúa Trời đi đến tận “âm phủ” (sheol, “mộ”) và “sự tối tăm” (Thi thiên 139:8, 11, 12), những nơi không thường được nói đến như là nơi Đức Chúa Trời ngự (Thi thiên 56:13) đã làm nổi bật sự hiện diện của Chúa. Sự hiện diện ấy cũng được mô tả như “lấy cánh hừng đông” (phía đông) để đến “những nơi tận cùng của biển cả” (phía tây) (Thi thiên 139:9). Những hình ảnh này nói lên một sự thật — đó là không có nơi nào trong vũ trụ này có thể nằm ngoài tầm tay của Chúa. Mặc dù Đức Chúa Trời không phải là một phần của vũ trụ, như một số người tin vậy, nhưng Ngài ở gần tất cả trong vũ trụ, vì Ngài không những đã tạo ra nó mà còn duy trì nó (xin xem Hê-bơ-rơ 1:3).

Là Đấng biết tất cả về chúng ta, Đức Chúa Trời có thể giúp đỡ và phục hồi chúng ta. Nhận thức mới về sự vĩ đại của Ngài thúc giục tác giả Thi thiên bộc phát lời ngợi khen và niềm tin mới. Tác giả hoan nghênh sự giám sát thiêng liêng từ Đức Chúa Trời vì nhờ đấy tác giả có thể loại bỏ khỏi đời sống mình những gì có thể cản trở mối liên hệ của ông với Chúa.

Một số người có thể cảm thấy rằng việc Chúa biết rất nhiều về họ, ngay cả những bí mật đen tối nhất của họ, thật là một điều khá đáng sợ. Vậy thì tại sao phúc âm lại là hy vọng duy nhất của chúng ta?

 

Đọc Thi thiên 40:1–3; 50:15; 55:22 và Thi thiên 121.Đức Chúa Trời can dự vào công việc hàng ngày của chúng ta ra sao?

Trong Kinh Thánh Chúa bày tỏ chính Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống, Đấng hành động thay cho những ai kêu cầu Ngài. Đối với tác giả Thi thiên, “Đức Giê-hô-va hằng ở trước mặt tôi” (Thi thiên 16:8). Vì vậy, ông tin cậy Đức Chúa Trời và kêu cầu Ngài (Thi thiên 7:1; Thi thiên 9:10). Chúa sẽ nghe tiếng ông nài xin ngay cả khi ông đang ở dưới “vực sâu” (Thi thiên 130:1, 2). Điều đó cho thấy không có hoàn cảnh nào trong đời sống con người thoát khỏi quyền trị vì tối cao của Đức Chúa Trời. Vì vậy, tiếng kêu nài của tác giả Thi thiên, dù khẩn cấp đến đâu, không bao giờ thiếu sự hy vọng.

Thi thiên 121 ca ngợi quyền năng của Đấng Tạo Hóa trong đời sống của người trung tín. Quyền năng này bao gồm:

1) “Ngài không để cho chơn ngươi trợt ngã” (Thi thiên 121:3). Hình ảnh “bàn chân” thường dùng để mô tả hành trình của một đời người (Thi thiên 66:9; Thi thiên 119:105; Châm ngôn 3:23). Chữ “trợt ngã” (move) trong tiếng Hê-bê-rơ mô tả sự an toàn mà Đức Chúa Trời ban cho thế gian (Thi thiên 93:1) và cho Si-ôn (Thi thiên 125:1).

2) Hình ảnh Chúa là Đấng Bảo Hộ của Y-sơ-ra-ên, không ngủ cũng không buồn ngủ làm nổi bật sự cảnh giác liên tục của Chúa và sự sẵn sàng hành động vì con cái Ngài (Thi thiên 121:3, 4).

(3) Đức Chúa Trời là “bóng mát của ngươi” (Thi thiên 121:5, 6) gợi nhớ đến trụ mây trong thời kỳ được giải cứu khỏi Ai Cập (Xuất Ê-díp-tô 13:21, 22). Tương tự như vậy, Chúa cung cấp nơi trú ẩn cho thể xác lẫn tâm linh cho dân sự Ngài.

(4) Đức Chúa Trời ở bên hữu họ (Thi thiên 121:5). Tay phải thường chỉ về bàn tay mạnh hơn, bàn tay hành động, của một người (Thi thiên 74:11; 89:13). Điều này nói về sự gần gũi và ân huệ của Đức Chúa Trời (Thi thiên 16:8; 109:31; 110:5).

(5) Sự bảo vệ của Đức Chúa Trời đối với dân Ngài được xác nhận rõ ràng trong Thi thiên 121:6–8. Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ con cái Ngài khỏi mọi điều ác. “Mặt trời” hay “mặt trăng” sẽ không tấn công họ. Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ họ “khi ra, khi vào”. Những hình ảnh nên thơ này nhấn mạnh đến sự chăm sóc toàn diện và không ngừng của Đức Chúa Trời.

Điểm mấu chốt ở đây là tác giả Thi thiên đã tin tưởng vào sự chăm sóc yêu thương của Chúa. Dĩ nhiên chúng ta cũng nên làm như vậy.

Bạn có biết những cách thực tế nào có thể giúp chúng ta trải nghiệm được sự chăm sóc của Đức Chúa Trời? Chúng ta nên hợp tác với Đức Chúa Trời như thế nào để Ngài có thể hành động trong và cho chúng ta?

 

Đọc Thi thiên 17:7–9, Thi thiên 31:1–3, và Thi thiên 91:2–7. Tác giả Thi thiên làm gì trong lúc khó khăn?

Tác giả Thi thiên trong những hoàn cảnh khó khăn đều luôn tìm đến Đức Chúa Trời, là nơi ẩn náu trong mọi nghịch cảnh. Tin cậy là một sự lựa chọn có chủ ý, trong đó chúng ta thừa nhận quyền trị vì của Chúa trên cuộc đời chúng ta trong mọi cảnh ngộ. Nếu không có sự tin cậy trong nghịch cảnh, thì cũng sẽ chẳng có sự tin cậy trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Lời chứng của tác giả Thi thiên: “Tôi sẽ nói về Đức Giê-hô-va rằng: ‘Ngài là nơi nương náu và đồn lũy tôi; Cũng là Đức Chúa Trời tôi, Tôi tin cậy nơi Ngài” (Thi thiên 91:2), bắt nguồn từ kinh nghiệm trong quá khứ của ông với Đức Chúa Trời và giờ đây được dùng để củng cố đức tin của ông cho tương lai. Tác giả gọi Đức Chúa Trời là Đấng Chí cao và Toàn năng (Thi thiên 91:1, 2) khi ông nhớ đến sự vĩ đại phi thường của Chúa mình.

Tác giả cũng nói về sự an toàn mà một người có thể tìm thấy nơi Đức Chúa Trời: “nơi kín đáo” (“nơi trú ẩn” hay “nơi ẩn náu”), “bóng” (Thi thiên 91:1), “nơi nương náu”, “đồn lũy” (Thi thiên 91:2), “cánh,” “cái khiên,” “cái can” (Thi thiên 91:4), và “nơi ở” (Thi thiên 91:9). Những hình ảnh này tượng trưng cho những nơi trú ẩn an toàn trong nền văn hóa của người viết Thi thiên. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến sức nóng khủng khiếp của vùng đất đó để thấu hiểu giá trị của bóng mát, hoặc nhớ lại thời kỳ chiến tranh trong lịch sử Y-sơ-ra-ên để coi quý sự an toàn do cái khiên hoặc đồn luỹ mang lại.

Đọc Thi thiên 17:8 và Ma-thi-ơ 23:37. Hình ảnh nào được xử dụng ở đây, và nó bày tỏ điều gì?

Một trong những ẩn dụ gần gủi nhất là ẩn dụ nói về việc “ở dưới bóng cánh của Đấng Toàn Năng” (Thi thiên 17:8; 57:1; 63:7). Ẩn dụ này với hình ảnh chim mẹ bảo vệ con mình gợi cho chúng ta một cảm giác thoải mái và an toàn. Đức Chúa Trời được ví như chim đại bàng dùng đôi cánh bảo vệ con mình (Xuất Ê-díp-tô Ký 19:4, Phục truyền Luật lệ Ký 32:11) hay một con gà mái ấp con mình dưới cánh (Ma-thi-ơ 23:37).

Tuy nhiên, chúng ta đối phó thế nào với những lúc tai họa ập đến, khi dường như chúng ta không thấy được sự che chở của Chúa? Tại sao những tổn thương này không có nghĩa là Chúa không ở đó với chúng ta?

 

Đọc 1 Cô-rinh-tô 10:1–4. Phao-lô mô tả hành trình rời khỏi Ai Cập như thế nào? Ông muốn dạy bài học thuộc linh nào ở đây?

Đọc Thi thiên 114. Sự giải cứu thiêng liêng khỏi Ai Cập của dân Y-sơra-ên được miêu tả cách nên thơ như thế nào trong bài Thánh thi này?

Sự giải cứu kỳ diệu của Đức Chúa Trời dành cho con cái Ngài khỏi ách nô lệ Ai Cập được mô tả rất nên thơ trong Thi thiên 114. Trong suốt Cựu Ước, và cả trong Tân Ước, sự giải cứu dân Ngài ra khỏi Ai Cập được xem như là biểu tượng của quyền năng Đức Chúa Trời. Đúng vậy, Phao-lô trong Cô-rinh-tô đã xem câu chuyện có thật này như một phép ẩn dụ, một biểu tượng của sự cứu rỗi trong Đức Chúa Giê-su Christ.

Thi thiên 114 mô tả quyền tối cao của Đức Chúa Trời – Đấng Tạo Hóa trên các quyền lực thiên nhiên mà Ngài đã xử dụng để cứu dân Ngài trong Cuộc Xuất Hành khỏi Ai Cập. Biển, sông Giô-đanh, núi đồi tiêu biểu một cách nên thơ các quyền lực thiên nhiên và sức mạnh con người chống lại Y-sơ-ra-ên trên đường đến Đất Hứa (Phục truyền Luật lệ Ký 1:44; Giô-suê 3:14−17). Tuy nhiên, Đức Chúa Trời có quyền trị vì trên tất cả chúng.

Thật ra, đối với nhiều con cái Đức Chúa Trời trong mọi giai đoạn và khắp mọi nơi, con đường đi đến Giê-ru-sa-lem trên trời là đầy dẫy nguy hiểm. Các Thi thiên khuyến khích họ hãy nhìn xa hơn những ngọn đồi trước mắt và hãy hướng mắt về Đấng Tạo Hóa của trời và đất (Thi thiên 121:1).

Tinh thần của Thi thiên 114 được bày tỏ qua sự kiện Đức Chúa Giê-su làm yên cơn bão biển và lời tuyên bố của Ngài rằng hội thánh không có gì phải sợ hãi vì Ngài đã chiến thắng thế gian (Ma-thi 8:23–27; Giăng 16:33).

Những việc làm vĩ đại của Đức Giê-hô-va cho dân Ngài sẽ truyền cảm hứng khiến cả trái đất run sợ trước sự hiện diện của Ngài (Thi thiên 114:7). Sự run sợ đây nên được hiểu là thừa nhận và tôn thờ hơn là kinh hãi (Thi thiên 96:9, Thi thiên 99:1). Với Chúa ở cùng, các tín đồ không có gì phải sợ hãi.

Là tín đồ, chúng ta phải đối diện với những nguy hiểm thuộc linh nào, và, cũng như người viết Thi thiên, làm sao chúng ta có thể học cách nương dựa vào quyền năng của Chúa để bảo vệ chúng ta không bị khuất phục trước những nguy hiểm rất thực ấy?

 

Đọc Thi thiên 3:4; Thi thiên 14:7; Thi thiên 20:1–3; Thi thiên 27:5; Thi thiên 36:8; Thi thiên 61:4; và Thi thiên 68:5, 35. Sự giúp đỡ đến từ đâu qua những câu Kinh Thánh này?

Nơi thánh thường xuất hiện trong thơ văn Thi thiên như là một nơi ẩn náu và giúp đỡ thể xác lẫn thuộc linh. Nơi thánh là nơi của che chở, an toàn và cứu rỗi, là nơi cho những kẻ gặp khó khăn được trú ẩn. Đức Chúa Trời bảo vệ trẻ mồ côi và người góa bụa và ban sức mạnh cho dân Ngài từ nơi thánh của Ngài. “Từ Si-ôn tốt đẹp toàn vẹn, Đức Chúa Trời đã sáng chói ra” (Thi thiên 50:2), sự phán xét công bình của Đức Chúa Trời được công bố, và phước lành của Chúa tuôn tràn (Thi thiên 84:4, Thi thiên 128:5, Thi thiên 134:3).

Ẩn náu trong nơi thánh có được sự an toàn hơn tất cả các nơi khác vì tại đây, chính Đức Chúa Trời ngự trị. Sự hiện diện của Đức Giê-hô-va, chứ không phải tòa nhà kiên cố, mang lại sự an toàn. Tương tự như vậy, núi Si-ôn dầu chỉ là một ngọn đồi khiêm tốn, nhưng nó vượt trội hơn những ngọn núi khác vì Chúa ngự trên núi ấy (Thi thiên 68:15, 16; Ê-sai 2:2).

“Vì chúng ta không có thầy tế lễ thượng phẩm không thể thông cảm với những yếu đuối của chúng ta, bèn có một thầy tế lễ cũng chịu cám dỗ như chúng ta về mọi mặt, nhưng không phạm tội. Vậy, chúng ta hãy dạn dĩ đến gần ngôi ân điển, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong lúc cần dùng” (Hê-bơ-rơ 4:15, 16).

Những câu Kinh Thánh này giống nhau như thế nào với điều Thi thiên nói về nơi thánh?

Sự thánh khiết của nơi thánh Đức Chúa Trời khiến tác giả Thi thiên thừa nhận rằng tất cả nhân loại đều tội lỗi và hoàn toàn không xứng đáng với ân huệ của Đức Chúa Trời, và ông tuyên bố rằng sự giải cứu chỉ dựa trên sự thành tín và ân điển của Đức Chúa Trời mà thôi (Thi thiên 143:2, 9–12). Chúng ta chẳng có công trạng nào trước mặt Chúa.Chỉ khi nào chúng ta có mối liên hệ đúng đắn với Đức Chúa Trời – qua sự ăn năn và chấp nhận ân điển cùng sự tha thứ của Ngài – thì chúng ta mới có thể cầu xin sự đảm bảo của Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi. Nghi lễ đền thánh biểu tượng cho sự cứu rỗi tìm được trong Đức Chúa Giê-su.

NGHIÊN CỨU BỔ TÚC:

Đọc Ellen G. White, “The Night of W tr.195–203, trong Patriarchs and Prophets. Từ kinh nghiệm của Gia Cốp chúng ta học được gì về quyền năng của lời cầu nguyện khẩn thiết và sự tin cậy tuyệt đối vào Thượng Đế?

Thi thiên củng cố đức tin chúng ta trong Đức Chúa Trời, Đấng luôn là Nơi Trú Ẩn cho những ai phó thác cuộc đời mình vào bàn tay quyền năng của Ngài. “Chúa sẽ làm những điều vĩ đại cho những ai tin cậy nơi Ngài. Lý do tại sao những người xưng là theo Ngài nhưng không được sức mạnh nhiều hơn là vì họ quá tin tưởng vào sự khôn ngoan của chính họ, và không cho Chúa cơ hội để bày tỏ quyền năng của Ngài thay cho họ. Ngài sẽ giúp đỡ những đứa con tin kính của Ngài trong mọi trường hợp khẩn cấp nếu chúng đặt trọn niềm tin nơi Ngài và trung thành vâng lời Ngài.”Ellen G. White, Patriarchs and Prophets, tr. 493.

Tuy nhiên, một số bài Thi thiên có thể đưa ra một thách thức nghiêm trọng khi các lời hứa của chúng không phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Trong những trường hợp đó, chúng ta chỉ cần học cách tin cậy vào lòng nhân từ của Đức Chúa Trời, điều được tỏ bày cách mạnh mẽ nhất trên thập giá.

Đôi khi một số Thi thiên có thể bị lạm dụng để nuôi dưỡng những hy vọng hão huyền. Phản ứng của Chúa Giê-su đối với việc Sa-tan dùng Thi thiên 91:11, 12 một cách sai lầm cho thấy rằng chúng ta không được nhầm lẫn việc tin cậy Đức Chúa Trời với việc thử thách Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 4:5−7) hoặc tự phụ yêu cầu Đức Chúa Trời làm điều gì đó trái với ý muốn của Ngài.

“Đối với Hội thánh của Đấng Christ hoặc với Cơ đốc nhân, những chiến thắng vĩ đại nhất không phải là những chiến thắng đạt được nhờ tài năng hay học vấn, hay nhờ sự giàu có hoặc sự ưu ái của loài người. Nhưng chúng là những chiến thắng đạt được tại nơi thông công mật thiết với Đức Chúa Trời, bởi đức tin, hãy tha thiết và hạ mình níu giữ cánh tay mạnh mẽ của quyền năng.”—Ellen G. White, Patriarchs and Prophets, p. 203.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

1. Những người viết Thi thiên đã trải qua những căng thẳng nào khi đối mặt với sự ác? Bạn đã từng đối mặt với những căng thẳng tương tự nào và bạn đã giải quyết chúng ra sao? Làm thế nào để bạn giữ vững niềm tin của mình trong những thời điểm ấy?

2. Chúng ta nên tìm kiếm câu trả lời ở đâu khi đức tin của chúng ta nơi Đức Chúa Trời bị thử thách bởi những khó khăn trong đời sống hoặc bởi kinh nghiệm của những người vì đau khổ mà nghi ngờ về sự tốt lành và quyền năng của Đức Chúa Trời?

3. Bạn trả lời thế nào cho câu hỏi thường được đưa lên rằng tại sao có sự ác trong một thế giới được tạo dựng và duy trì bởi một Đức Chúa Trời yêu thương và toàn năng? Ý tưởng về thiện ác đấu tranh có thể giúp bạn trả lời thách thức này như thế nào, dầu chỉ phần nào?

Bài Học 3, 13 — 19 Tháng 1

Đức Giê-Hô-Va Trị Vì

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU:Thi thiên 8; Thi thiên 100; Thi thiên 97; Thi thiên 75; Thi thiên 105:7−10; Thi thiên 25:10; Ga-la-ti 3:26–29.

CÂU GỐC: “Đức Giê-hô-va trị vì; Ngài mặc sự oai nghi; Đức Giêhô-va mặc sự oai nghi và trang bị bằng sức mạnh; Ngài nai nịt bằng quyền năng; Thế gian cũng được lập vững bền, không thể bị rúng động” (Thi thiên 93:1).

 

Đọc Thi thiên 8 và Thi thiên 100. Các bài Thi thiên này mô tả Đức Chúa Trời và con người ra sao? Chúng tiết lộ điều gì về cá tính của Đức Chúa Trời?

Sự Sáng tạo đóng một vai trò quan trọng trong Thi thiên, trong việc duy trì quyền tối cao của Đức Chúa Trời. Các tầng trời, là “công trình của tay Ngài,” công bố sự vinh hiển và quyền năng của Ngài (Thi thiên 19:1−4, Thi thiên 97:6). Danh Đức Chúa Trời oai nghiêm trên khắp trái đất (Thi thiên 8:1, 9). Chúa đã tạo ra mọi thứ; Ngài không có khởi đầu (Thi thiên 93:2) và không có kết thúc (Thi thiên 102:25−27). Ngài là vĩnh cửu và siêu việt hơn các thần của các quốc gia, chúng vốn chỉ là “công việc tay người làm ra” (Thi thiên 115:4). Các thần tượng “có tay, nhưng không cầm” (Thi thiên 115:7); nhưng đối với Chúa, “trong tay Ngài là những vực sâu của đất . . . . đất khô, tay Ngài cũng đã nắn nên nó” (Thi thiên 95:4, 5).

Một số Thi thiên miêu tả quyền năng của Đức Chúa Trời trên cả các sức mạnh thiên nhiên (ví dụ: Thi thiên 29; 93; 104). Những Thánh thi này xác nhận lại lời công bố rằng Đức Chúa Trời cai trị mọi tạo vật, có quyền lực và phẩm giá tối cao. Thi thiên 100:3 đả phá một trong những hình thức thờ hình tượng—sự tự lực cánh sinh, nhấn mạnh rằng Đức Chúa Trời—chớ không phải chúng ta—đã tạo ra chúng ta.

Tạo vật cũng làm chứng cho tình yêu của Đức Chúa Trời. Mọi vật hiện hữu hay tồn tại đều nhờ Đức Chúa Trời, Đấng duy trì sự sống (Thi thiên 95:7; Thi thiên147:4−9). Hãy lưu ý rằng Đức Chúa Trời không những ban cho con người sự tồn tại, mà Ngài còn khiến Y-sơ-ra-ên xưa trở thành “dân sự Ngài và bầy chiên của đồng cỏ Ngài” (Thi thiên 100:3). Khái niệm “dân Ngài” và “bầy chiên Ngài” bày tỏ Đức Chúa Trời mong muốn có mối liên hệ mật thiết với dân sự Ngài.

Chỉ có Đấng Tạo Hóa mới có quyền năng ban phước và khiến dân Ngài gia tăng, và do đó, Ngài là Đấng duy nhất xứng đáng để họ thờ phượng và tin tưởng. Rất nhiều bài Thi thiên kêu gọi tất mọi vật có hơi thở, tất cả đất, biển và mọi thứ trong đó hãy reo hò vui mừng trước mặt Chúa.

Vinh quang của Đức Chúa Trời được nhìn thấy trong sự sáng tạo, ngay cả trong sự sáng tạo trần gian đã sa ngã, và các Thi thiên chỉ cho chúng ta thấy chỉ một mình Đức Chúa Trời là đáng được thờ phượng.

“Loài người là chi mà Chúa nhớ đến, con người là chi mà Chúa viếng thăm? ” (Thi thiên 8:4 ). Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa cho bạn phản ứng gì? Khi Đức Chúa Trời gọi tên các vì sao (Thi thiên 147:4), bạn nghĩ Ngài quan tâm đến bạn nhiều đến mức nào?

Một yếu tố không thể tách rời với Đức Chúa Trời—Đấng Tạo Hóa là Đức Chúa Trời—Đấng Tối Cao, Đấng Cai Trị. “Đức Giê-hô-va trị vì” được tuyên bố long trọng trong Thi thiên 93:1; 96:10; 97:1và 99:1, nhưng tiếng vang của nó được nghe thấy trong suốt sách Thi thiên.

Chúa được mặc lấy vinh quang, uy nghi và sức mạnh (Thi thiên 93:1; 104:1). Mây và bóng tối bao quanh Ngài (Thi thiên 97:2), nhưng Ngài cũng bao phủ chính Ngài bằng “ánh sáng như tấm áo” (Thi thiên 104:2). Những ẩn dụ này đề cao quyền năng và sự huy hoàng của Vua, đồng thời được lựa chọn cẩn thận để bày tỏ sự vĩ đại độc nhất vô nhị của Đức Chúa Trời mà con người không thể hiểu được.

Đọc Thi thiên 97. Điều gì nói lên đặc điểm của triều đại Chúa?(Thi thiên 97:2,10) Lãnh thổ trị vì của Ngài bao gồm những gì? (Thi thiên 97:1, 5, 9).

Sự trị vì của Chúa được thể hiện trong việc sáng tạo (Thi thiên 96:5), trong công cuộc cứu rỗi (Thi thiên 98:2) và trong sự phán xét (Thi thiên 96:10) của Ngài. Chúa thiết lập vương quyền Ngài trên toàn thế gian (Thi thiên 47:6−9). Vương quốc của Đức Chúa Trời là một vương quốc đời đời, với quyền năng và uy nghi vô song (Thi thiên 45:6; 93:1,2; 103:19). Triều đại của Chúa được thiết lập trên lòng thương xót, công lý và lẽ phải, và triều đại đó mang lại trật tự và ổn định cho thế gian được dựng nên (Thi thiên 98:3; 99:4). Triều đại của Đức Chúa Trời thống nhất những người thờ phượng trên trời và dưới đất trong sự ngợi khen Đức Chúa Trời (Thi thiên 103:20−22; Thi thiên 148). Nhiều Thi thiên hình dung toàn thể nhân loại thừa nhận quyền tối thượng của Đức Chúa Trời (Thi thiên 96:10; 97:1; 99:1; 145:11–13).

Nhưng không phải tất cả mọi người, ngay cả những người cai trị trên đất, chấp nhận điều ấy. Triều đại của Chúa liên tục bị chống đối bởi kẻ ác, những kẻ chối bỏ, nhạo báng Chúa và áp bức dân Ngài (Thi thiên 14:1; 74:3−22). Các tác giả Thi thiên, tuy cảm thấy bị thách thức bởi sự thịnh vượng của một số kẻ gian ác và thắc mắc trước sự kiên nhẫn của Đức Chúa Trời, nhưng họ tin cậy vào sự trị vì tối cao của Ngài và tiếp tục phát triển trong sự chắc chắn về sự phán xét công bình của Đức Chúa Trời (Thi thiên 68:21; 73:17−20). Bởi đức tin, dân sự của Đức Chúa Trời vui mừng trong sự khánh thành vương quốc của Ngài qua chức vụ cứu chuộc của Đấng Christ và chờ đợi sự hoàn thành của vương quốc khi Đấng Christ tái lâm (Ma-thi-ơ 12:26-28, 1 Cô-rinh-tô 15:20-28).

“Hỡi những người yêu mến Đức Giê-hô-va, hãy ghét điều ác!” (Thi thiên 97:10). Tại sao tình yêu của chúng ta dành cho Đức Chúa Trời lại khiến chúng ta ghét điều ác? Hai khái niệm này liên quan ra sao?

Đọc Thi thiên 75. Tại sao sự khoe khoang của kẻ ác là vô ích?

Là Vua tối cao, Đức Chúa Trời cũng là Đấng ban hành luật pháp (Thi thiên 99:7) và là Quan Án (Thi thiên 98:9, Thi thiên 97:2). Kẻ ác liên tục đe dọa trật tự công bằng mà Đức Chúa Trời đã thiết lập trên thế gian, nhưng Chúa sẽ phán xét thế giới và chấm dứt sự thống trị của điều ác (Thi thiên 75:8−10; 96:13).

Thi-thiên 75 cho nhiều hình ảnh mô tả sự hủy diệt đời đời của kẻ ác. Hình ảnh chiếc cốc đựng rượu vang đỏ (Thi thiên 75:8) cho thấy cơn thịnh nộ dữ dội của Đức Chúa Trời (Giê-rê-mi 25:15, Khải huyền 14:10). Việc chặt sừng kẻ ác tượng trưng cho sự kết thúc quyền lực và sự thống trị của chúng, trong khi sừng của người công bình sẽ được tôn cao (Thi thiên 75:10). Đức Chúa Trời chọn một “thời điểm thích hợp” hay “thì giờ đã định” (Thi thiên 75:2) cho sự phán xét của Ngài. Quyền hành pháp phán xét này rõ ràng sẽ diễn ra vào ngày tận thế (Thi thiên 96:13; 1Cô-rinh 15:23−26).

Chúa dò xét lòng người như một phần trong sự phán xét của Ngài. Đọc Thi thiên 14:2. Nó gợi nhớ Sáng thế Ký 6:5, 8. Cả hai phần Kinh Thánh đều cho thấy rằng việc Đức Chúa Trời thi hành sự phán xét thế gian sau việc Đức Chúa Trời xem xét đời sống của mỗi người và tìm kiếm bất cứ ai mà Ngài có thể cứu. Sự phán xét này đôi khi được gọi là “sự điều tra phán xét,” khi Đức Chúa Trời bênh vực người công chính và quyết định số phận của kẻ ác.

Việc ấy thực hiện ra sao?

Đầu tiên, Đức Chúa Trời giải cứu dân sự Ngài khỏi kẻ ác (Thi thiên 97:10; Thi thiên 146:9) và đội mão cứu rỗi cho người khiêm nhường (Thi thiên 149:4). Sau đó, những kẻ ác không ăn năn sẽ bị hủy diệt đời đời (Thi thiên 97:3). Một số Thi thiên làm thơ mô tả sự vô dụng của vũ khí con người đối với Quan Án trên trời (Thi thiên 76:3–6). Đức Chúa Trời cũng là Đấng hay tha thứ, mặc dù Ngài trừng phạt những hành vi sai phạm của con người (Thi thiên 99:8). Dân sự Đức Chúa Trời, không chỉ kẻ ác, sẽ khai trình với Đức Chúa Trời (Thi thiên 50:4; 135:14).

Khái niệm này cũng được bày tỏ qua những đoạn Kinh Thánh khác, rằng sự phán xét của Đức Chúa Trời bắt đầu với dân sự Ngài và mở rộng ra toàn thế giới (Phục truyền 32:36, 1 Phi-e-rơ 4:17). Tác giả Thi thiên kêu cầu Đức Chúa Trời phán xét ông nhưng vẫn dựa vào sự công bình của Ngài để bênh vực mình (Thi thiên 7:8−11; Thi thiên 139:23, 24).

Thi thiên kêu gọi chúng ta vui mừng trước sự phán xét của Đức Chúa Trời (Thi thiên 67:4; 96:10−13; 98:4−9). Vì sao sự phán xét của Đức Chúa Trời là tin mừng đối với những người được bao phủ bởi huyết của Đấng Christ?

Sự phán xét của Đức Chúa Trời là một đề tài đưa đến câu hỏi quan trọng: Làm sao dân sự Đức Chúa Trời có được sự hòa thuận với Ngài, và bảo đảm được sự cứu rỗi vào lúc phán xét? Đọc Thi thiên 94:14; Thi thiên 105:7−10; Đa-ni-ên 7:22.

Dân sự của Đức Chúa Trời được an toàn vì Chúa đã đặt nơi ngự của Ngài tại Si-ôn (Thi thiên 76:1, 2) và thiết lập giao ước đời đời của Ngài với họ như tài sản quý giá của Ngài (Thi thiên 94:14; 105:8–10). Thượng Đế không chỉ hứa rằng Ngài sẽ không từ bỏ dân giao ước của Ngài; mà còn tích cực hành động để giữ họ an toàn trong Ngài. Chúa tha tội cho họ (Thi thiên 103:3); Ngài chỉ dẫn, ban phước và củng cố dân Ngài (Thi thiên 25:8−11; Thi thiên 29:11; Thi thiên 105:24). Sự phán xét của Đức Chúa Trời cần phải có để khiến dân sự trở nên công chính và để chứng tỏ rằng Chúa Trời quan tâm đến họ (Thi thiên 94:8–15).

Toàn bộ Thi thiên 105 cho thấy sự thành tín của Chúa đối với giao ước của Ngài trong lịch sử Y-sơ-ra-ên. Trong mọi việc xảy ra, dù tốt hay xấu, Chúa vẫn ở đó. Ngài dẫn đưa Giô-sép đến Ai Cập và qua Giô-sép dân Ngài và các quốc gia trong khu vực đó được cứu trong nạn đói nghiêm trọng (Thi thiên 105:16−24). Chúa đã dấy Môi-se lên để dẫn dắt dân Ngài ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, điều mà Môi-se đã làm với những dấu kỳ phép lạ thay cho họ (Thi thiên 105:25−38).

Đức Chúa Trời ban cho dân Ngài Đất Hứa (Thi thiên 105:11, 44) và sự bảo vệ liên tục của Ngài (Thi thiên 105:12−15). Ngài đã gia tăng dân số họ (Thi thiên105:24), giải phóng họ khỏi các bá vương lãnh chúa (Thi thiên 105:37, 38) và chu cấp cho nhu cầu hàng ngày của họ (Thi thiên 105:39−41). Chúa chắc chắn nắm quyền kiểm soát tất cả những gì liên quan đến dân Ngài—một sự thật mà các tác giả Thi thiên muốn dân Ngài không bao giờ quên.

Khi Đức Chúa Trời nhớ lại giao ước của Ngài, điều đó không phải chỉ là nhận thức hay trí nhớ mà hơn thế nữa, nó luôn dẫn đến hành động (Sáng thế Ký 8:1; 1 Sa-mu-ên 1:19; Thi thiên 98:3, Thi thiên 105:42–44). Tương tự như vậy, khi dân sự được kêu gọi hãy nhớ đến những điều kỳ diệu và sự phán xét của Đức Chúa Trời, điều đó có nghĩa là dân sự phải sống cách nào để tôn vinh Đức Chúa Trời.

Trong giao ước này, lời kêu gọi chính cho Y-sơ-ra-ên là trung thành với giao ước bằng cách tuân theo luật pháp của Đức Chúa Trời (Thi thiên 78:5−7; Thi thiên 105:45). Dân sự Chúa cũng được kêu gọi làm chứng về Ngài cho các quốc gia khác, vì Chúa mong muốn tất cả các quốc gia, gia nhập dân Ngài là Y-sơ-ra-ên (Thi thiên 105:1, 2). Do đó, thế giới được an toàn trong giao ước bảo vệ của Đức Chúa Trời toàn năng và nhân từ (Thi thiên 89:28−34).

Điều gì chúng ta có trong Chúa Giê-su cho thấy rằng những lời hứa dành cho Y-sơ-ra-ên ngày xưa có thể áp dụng cho chúng ta ngày nay? (Xin xem Ga-la-ti 3:26–29).

Đọc Thi thiên 19:7; Thi thiên 93:5; Thi thiên 119:165; Thi thiên 1:2, 6; Thi thiên 18:30; và Thi thiên 25:10. Chủ đề chung của các bài Thánh thi này là gì?

Là Đấng Tạo Hóa, Vua và Quan Xét tối cao, uy quyền tối cao của Đức Chúa Trời có hàm ý về sự đáng tin cậy của các lời chứng của Ngài. Những lời chứng (tiếng Hê-bơ-rơ là “edut”, “sắc lệnh,” “luật pháp”) đề cập đến tất cả luật pháp và sắc lệnh mà Chúa dùng để cai trị đời sống tôn giáo và xã hội của dân Ngài (Xuất Ê-díp-tô Ký 32:15). Chúng là “rất chắc chắn” (Thi thiên 93:5), phản ảnh sự vững chắc và trường tồn của ngôi Đức Chúa Trời và thế giới mà Ngài đã tạo dựng và duy trì (Thi 93:1, 2). Chữ “chắc chắn” được dịch từ tiếng Hê-bê-rơ truyền đạt ý niệm về sự đáng tin cậy, thành tín, và vững chắc (2 Sa-mu-ên 7:16, 1 Sử ký 17:23). Luật pháp của Đức Chúa Trời là không thể thay đổi và không thể bị phá hủy.

Đức Chúa Trời bảo đảm sự trung thực của những lời hứa và mệnh lệnh của Ngài. Sự thành tín của Đức Chúa Trời đảm bảo trọn vẹn tính chất không thể thay đổi của sự cai trị của Ngài, cũng như đòi hỏi dân sự Ngài đáp ứng qua sự tin cậy và vâng lời Ngài.

Sự thiếu công lý trên thế giới được mô tả một cách văn vẻ như sự rúng động của nền tảng trái đất (Thi thiên 18:7, Ê-sai 24:18–21). Luật pháp của Đức Chúa Trời chỉ dẫn con người lối sống công chính để có thể chịu được sự phán xét của Đức Chúa Trời. Do đó, người công bình sẽ không bị lung lay, bởi vì họ có rễ vững chắc trong luật pháp của Đức Chúa Trời, là luật pháp mang lại sự ổn định và an ninh, và lòng họ luôn vững vàng kiên định trong Chúa (Thi thiên 112:1, 6, 7). Không có gì khiến những người giữ luật pháp của Đức Chúa Trời vấp ngã (Thi thiên 119:165), điều này biểu thị sự bảo vệ và hướng dẫn của Đức Chúa Trời trong cuộc sống (Thi thiên 1:2, 3,

6).

Lời Đức Chúa Trời được miêu tả như ngọn đèn cho chân tác giả, vì vậy nó bảo vệ ông khỏi cạm bẫy ngấm ngầm của kẻ thù (Thi thiên 119:105,

110). Sự bình an lớn lao mà những người yêu mến luật pháp của Đức Chúa Trời được hưởng (Thi thiên 119:165), dĩ nhiên không phải vì không có khó khăn nào xảy ra cho họ (Thi thiên 119:161) nhưng là vì họ ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời và có mối liên hệ tốt lành với Ngài.

Vâng giữ luật pháp, quy tắc và lời chứng của Thượng Đế đã giúp bạn cách thiết thực ra sao trong cuộc sống? Mặt khác, bạn đã trải qua những khó khăn nào khi vi phạm chúng?

NGHIÊN CỨU BỔ TÚC:

Đọc Thi thiên 86:5, 15; Ellen G. White, “Lòng Bác Ái Của Đức Chúa Trời” tr. 7-13, Con Đường Giải Thoát [bản Việt ngữ]. Lẽ thật về Đức Chúa Trời là sự yêu thương giúp chúng ta hiểu rõ hơn những mô tả khác nhau trong Thi thiên về Đức Chúa Trời và việc làm của Ngài như thế nào?

Bài học tuần này tập trung vào những mô tả chính về Đức Chúa Trời và các hoạt động của Ngài: việc thiết lập thế gian và làm cho nó trở nên vững chắc và an toàn. Các tác giả Thi thiên khẩn cầu với Đức Chúa Trời, là Đấng Tạo Hóa, Vua, Quan Án, Đấng Cứu Rỗi, và Đấng Lập Pháp. Vai trò Ngài trong thế gian này cũng được phản ảnh rõ ràng hơn qua các tên và danh hiệu khác chẳng hạn như Người Chăn giữ (Thi thiên 23:1; 80:1), Hòn đá Cứu rỗi (Thi thiên 95:1) và Cha (Thi thiên 68:5, Thi thiên 89:26). Chúng ta có sự bảo đảm và an toàn trong thế gian này, ngay cả giữa những hỗn loạn của cuộc tranh chấp lớn, bởi vì Đức Chúa Trời là Đấng tối cao và thành tín trong mọi việc Ngài làm và phán. Những chủ đề thần học này tuy không bao gồm tất cả, nhưng chúng gợi ý cho thấy những cách Đức Chúa Trời dùng để khải thị chính Ngài trong các Thi thiên.

Khi chúng ta tiếp tục nghiên cứu Thi thiên, điều quan trọng cần nhớ là hãy đọc Thi thiên dưới ánh sáng của tình yêu thương và ân điển của Đức Chúa Trời, cũng như kế hoạch Ngài có để giải cứu và phục hồi thế gian. “Chúng ta càng nghiên cứu về thần tánh của Chúa trong ánh sáng của thập tự giá, thì càng nhìn thấy lòng từ bi, âu yếm, khoan dung hòa lẫn với sự vô tư và công bình, lại càng thấy rõ hơn nữa hằng hà sa số chứng cớ của một tình yêu vô bờ bến cùng một sự cảm thông vượt quá lòng thương xót của một bà mẹ đối với đứa con lạc loài vậy”—Ellen G. White, Con Đường Giải Thoát tr. 13 [bản Việt ngữ] (Steps to Christ, p. 15). Trong Thi thiên, ngay cả khi dân sự vì sự phản nghịch của họ phải đối diện với sự phán xét của Đức Chúa Trời, họ vẫn tiếp tục kêu cầu Đức Chúa Trời vì họ biết rằng cơn giận của Đức Chúa Trời chỉ nhất thời, nhưng lòng nhân từ của Ngài thì đời đời (Thi thiên 103:8).

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

  1. Niềm tin nơi Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa sẽ uốn nắn ra sao sự hiểu biết của chúng ta về bản thân, và mối liên hệ của chúng ta với những tạo vật khác? Điều gì xảy ra khi người ta đi lạc khỏi lẽ thật đó (Thi thiên 106:35−42)?
  2. Có gì sai với thần tượng của các quốc gia vào thời Kinh Thánh (Thi thiên 115:4−8)? Còn những thần tượng hiện đại thì sao? Tại sao chúng rất nguy hiểm trong việc chúng ta bước đi với Chúa?
  3. Dân sự của Đức Chúa Trời nên sống thế nào khi biết rằng sự phán xét của Đức Chúa Trời bắt đầu với dân sự của Ngài? Đức Chúa Trời phán xét dân Ngài như thế nào và với mục đích gì?

Bài Học 2, 6 — 12 Tháng 1

Xin Dạy Chúng Con Cầu Nguyện

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: Thi thiên 105:5; Cô-lô-se 3:16; Gia cơ 5:13; Thi thiên 44; 22; 13; và Thi thiên 60:1–5.

CÂU GỐC: “Có một ngày, Đức Chúa Jêsus cầu nguyện ở nơi kia. Khi cầu nguyện xong, một môn đồ thưa cùng Ngài rằng: Lạy Chúa, xin dạy chúng tôi cầu nguyện, cũng như Giăng đã dạy các môn đồ mình.” (Lu-ca 11:1).

Đọc Thi thiên 105:5; Cô-lô 3:16 và Gia-cơ 5:13. Thi thiên đóng vai trò nào trong kinh nghiệm thờ phượng của tín đồ?

Cách đơn giản để đưa Thi thiên vào cuộc sống hàng ngày là hãy dành thời giờ mỗi ngày để đọc một bài Thi thiên, bắt đầu với Thi thiên 1, và kế tiếp theo thứ tự ghi trong sách. Một cách khác là đọc các bài Thi thiên tương ứng với hoàn cảnh hiện tại của mình, bất kỳ nó ra sao: có thể đó là bài Thi thiên than khóc một mình, than khóc cộng đồng, Thi thiên tạ ơn, Thi thiên ăn năn, Thi thiên tìm kiếm sự khôn ngoan và sự hướng dẫn của Chúa, Thi thiên lịch sử, Thi thiên chứa đựng sự tức giận, phẩn uất, và Thi thiên hành hương. Trong tam cá nguyệt này, chúng ta sẽ học hỏi và nghiên cứu nhiều bài Thi thiên ấy, trong bối cảnh mà chúng được viết.

Vậy thì chúng ta phải đọc Thi thiên như thế nào?

Đầu tiên hãy đọc bài Thi thiên, suy gẫm đơn giản, rồi cầu nguyện. Suy gẫm sâu xa hơn, độc giả cần xem xét các khía cạnh khác nhau của bài Thánh thi: cách tác giả nói về Đức Chúa Trời, và lý do của bài cầu nguyện. Chúng ta có thể so sánh hoàn cảnh mình với kinh nghiệm của tác giả, và xem nếu bài Thánh thi ấy có thể giúp chúng ta nói lên kinh nghiệm của mình. Nhiều khi chúng ta sẽ ngạc nhiên khi thấy những bài Thánh thi ấy hầu như là viết cho chính chúng ta.

Nếu điều gì đó trong bài Thi thiên như thách thức chúng ta, hãy suy ngẫm về sứ điệp của bài cầu nguyện trong ánh sáng của chính bản thân Đức Chúa Giê-su, chương trình cứu chuộc của Ngài, và những hy vọng lâu dài mà công việc và Đấng Christ mang lại cho chúng ta. Như chúng ta biết, hoặc nên biết, việc xem xét mọi điều trong Kinh Thánh dưới ánh sáng của Đấng Christ và thập tự giá là luôn hữu ích.

Ngoài ra, hãy tìm những động cơ mới cho việc cầu nguyện mà Thi thiên cung cấp, và suy gẫm về tầm quan trọng của chúng đối với chúng ta, với hội thánh, và thế giới. Hãy cầu xin Chúa đặt Lời Ngài vào tấm lòng và tâm trí của chúng ta. Nếu bài Thi thiên tương ứng với hoàn cảnh của một người mà bạn biết, hãy cầu thay cho người đó. Điều cần ghi nhớ là các bài Thi thiên đề cập đến rất nhiều khía cạnh của cuộc sống, và chúng ta có thể trở nên phong phú hơn bằng cách đọc và thấm nhuần những gì chúng nói với chúng ta.

“Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh chị em” (Cô-lôse 3:16) có nghĩa là gì? Tại sao đọc Kinh Thánh là bước đầu tiên và quan trọng nhất để có kinh nghiệm đó?

Tất cả các Cơ Đốc nhân đều biết và đã trải qua những lúc tuyệt vọng và đau khổ, những lúc họ tự hỏi Chúa đang làm gì, hoặc tại sao Chúa lại cho phép những điều này xảy ra. Bản thân các tác giả Thi thiên cũng trải qua những điều tương tự. Và, nhờ sự soi dẫn thiêng liêng, họ đã ghi lại những gì họ đã trải qua.

Đọc Thi thiên 44. Bài này nói với chúng ta điều gì, và tại sao điều ấy liên quan đến các tín đồ ở mọi thời đại?

Những bài Thi thiên được lựa chọn để dùng trong các buổi thờ phượng tại các nhà thờ thường phản ảnh sự giới hạn của những tâm trạng và ngôn ngữ mà chúng ta phát biểu trong những bài cầu nguyện chung. Sự hạn chế như vậy có thể là dấu hiệu của việc chúng ta không có khả năng hoặc lo lắng khi dấn bước vào những thực tế đen tối của cuộc đời. Chẳng hạn, khi gặp hoạn nạn, chúng ta đôi khi có thể cảm thấy Đức Chúa Trời đối xử bất công, nhưng dầu vậy, chúng ta vẫn thấy việc bày tỏ cảm nghĩ của mình (rằng Chúa bất công) trong buổi thờ phượng chung hoặc ngay cả khi cầu nguyện riêng là điều không thích hợp.

Sự miễn cưỡng này có thể khiến chúng ta bỏ lỡ cốt ý của sự thờ phượng. Việc không thể bày tỏ một cách trung thực và cởi mở những cảm xúc và quan điểm của mình trước mặt Đức Chúa Trời trong lời cầu nguyện thường khiến chúng ta bị nô lệ cho những cảm xúc của chính mình. Điều này cũng ngăn cản chúng ta đặt lòng tin cậy và phó thác khi đến gần Chúa. Cầu nguyện bằng Thi thiên mang đến cho chúng ta một bảo đảm rằng, khi chúng ta cầu nguyện và thờ phượng, chúng ta không bị bắt buộc phải chỉ trích hoặc phủ nhận kinh nghiệm của mình.

Chẳng hạn, Thi thiên 44 có thể giúp những người thờ phượng nói lên kinh nghiệm về sự chịu đựng cách vô căn cứ của họ một cách tự do và thỏa đáng. Cầu nguyện bằng Thi thiên giúp mọi người kinh nghiệm được sự tự do ngôn luận trong lời cầu nguyện. Các bài Thánh thi cho chúng ta những lời mà chúng ta không thể tìm và cũng không dám nói ra. “Lòng chúng tôi không thối lại, Bước chúng tôi không trớ khỏi lối Chúa. Dầu vậy, Chúa đã bẻ nát chúng tôi trong chỗ chó rừng, Bao phủ chúng tôi bằng bóng sự chết.” (Thi thiên 44:18,19).

Chúng ta cũng nên lưu ý cách Thi thiên 44 bắt đầu. Tác giả nói về việc Đức Chúa Trời, trong quá khứ, đã làm những điều vĩ đại ra sao cho dân Ngài. Do đó, tác giả bày tỏ lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời chứ không phải “nơi cây cung của tôi” (Thi thiên 44:6).

Mặc dù vậy, rắc rối vẫn đến với dân sự Đức Chúa Trời. Bảng kê khai những khổ đau và buồn thảm rất dài và đau lòng. Nhưng ngay giữa tất cả những điều này, tác giả Thi thiên vẫn nài xin kêu cầu Đức Chúa Trời giải cứu, “Xin Chúa hãy chỗi dậy mà giúp đỡ chúng tôi, Hãy vì sự nhân từ Chúa mà cứu chuộc chúng tôi” (Thi thiên 44:26). Nghĩa là, ngay cả trong lúc khó khăn, người ấy vẫn biết sự thật về Đức Chúa Trời và tình yêu của Ngài.

Việc dựa vào quá khứ khi sự hiện diện của Đức Chúa Trời cảm thấy rất thật, có thể giúp chúng ta đối phó thế nào với những lúc khó khăn khi chúng ta nghĩ rằng Chúa sao xa cách quá?

Cầu nguyện bằng Thi thiên giúp những người thờ phượng nói lên lời cầu nguyện của họ một cách tự do. Và hơn thế nữa, các bài Thánh thi giám sát các kinh nghiệm của họ theo tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời và khiến cho các trải nghiệm đó có thể chịu đựng được bằng cách giới thiệu niềm hy vọng và cam đoan sự hiện diện của Ngài.

Đọc Thi thiên 22. Chúng ta có thể học được gì từ bài Thi thiên này về sự tin cậy nơi Đức Chúa Trời giữa muôn vàn đau khổ?

Những lời kêu than của Thi thiên 22:1 có thể giúp những người đang đau khổ bày tỏ nỗi sầu thảm và cảm giác cô đơn của mình: “Đức Chúa Trời tôi ơi, Đức Chúa Trời tôi ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi? Nhân sao Ngài đứng xa, không giúp đỡ tôi, và chẳng nghe lời rên siếc tôi?”

Những lời kêu thống khổ này dĩ nhiên được mọi Cơ Đốc nhân biết đến vì đó cũng là những lời thốt ra bởi chính Đức Chúa Giê-su khi Ngài đang ở trên thập giá. Việc ấy cho chúng ta thấy tầm quan trọng của các bài Thi thiên đối với kinh nghiệm của Đấng Christ (xem Ma-thi-ơ 27:46).

Tuy nhiên, ngay cả giữa những đau khổ và thử thách, những lời này cũng được tỏ bày : “Tôi sẽ rao truyền danh Chúa cho anh em tôi; và ngợi khen Chúa giữa hội chúng ” (Thi thiên 22:22).

Nói cách khác, mặc dù những cảm xúc này có thể không trùng hợp với tình trạng khó xử hiện tại của tác giả, tác giả Thi thiên vẫn bày tỏ niềm tin của mình nơi Đức Chúa Trời và tuyên bố rằng, dù sao đi nữa, ông vẫn sẽ ngợi khen Đức Chúa Trời.

Điểm muốn nói ở đây là, bằng cách cho chúng ta những lời cầu nguyện, Thi thiên dạy chúng ta nhìn xa hơn hoàn cảnh hiện tại của mình và, bởi đức tin, nhìn đến thời điểm khi cuộc sống của chúng ta sẽ được phục hồi bởi ân điển Đức Chúa Trời.

Do đó, cầu nguyện bằng Thi thiên sẽ đưa người thờ phượng đến những chân trời thiêng liêng mới. Các bài Thi thiên để cho những người thờ phượng bày tỏ cảm xúc và sự hiểu biết của họ, nhưng không bỏ họ ở lại nơi họ đang ở. Họ được hướng dẫn để từ bỏ gánh nặng đau đớn, thất vọng, tức giận và tuyệt vọng trước Chúa và tin cậy vào Ngài, bất kể hoàn cảnh của họ ra sao.

Sự biến chuyển từ than thở sang ngợi khen chúng ta thấy trong Thi thiên gợi ý về sự biến đổi thuộc linh mà các tín hữu trải qua khi họ nhận được ân điển và sự an ủi thiêng liêng trong lời cầu nguyện.

Làm sao chúng ta có thể học được cách nhìn xa hơn những thử thách trước mắt và nhờ đó, tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa, bất kể điều gì chúng ta đang phải đương đầu?

 

Chúng ta tất cả có lẽ đã từng đối mặt với những lúc mà sự hiện diện của Chúa dường như rất xa vời. Ai đã chẳng từng nghĩ: Làm sao chuyện ấy lại có thể xảy ra?

Các tác giả Thi thiên, những người cũng như chúng ta, chắc chắn cũng đã từng đối mặt với những điều tương tự. Đúng vậy, mặc dù lắm khi tội lỗi mang đến những hậu quả khó khăn trong đời chúng ta, nhưng có những lúc những khó khăn xảy ra dường như rất bất công, và chúng ta cảm thấy như thể mình không đáng phải chịu những hoạn nạn ấy. Ai đã chẳng từng trải qua kinh nghiệm đó.

Đọc Thi thiên 13. Bạn có thể phân biệt hai tâm trạng chính nào trong bài Thi thiên này? Bạn nghĩ quyết định nào đã mang lại sự thay đổi căn bản trong quan điểm chung của tác giả?

“Đức Giê-hô-va ôi! Ngài sẽ hằng quên tôi cho đến chừng nào? Ngài ẩn mặt cùng tôi cho đến bao giờ?”(Thi thiên 13:1). Làm sao mà bạn không thông cảm được với những cảm xúc này, dù chúng có thể là sai? (Chúa đâu có bao giờ quên chúng ta.)

Thi thiên 13 chỉ ra cách để chúng ta tránh một sai lầm thông thường khác, đó là chú trọng đến bản thân và những vấn đề của chúng ta khi cầu nguyện. Bài Thi thiên này có thể biến đổi lời cầu nguyện của chúng ta bằng cách dẫn dắt chúng ta xác định lại bản chất trung tín và không thay đổi trong cách Đức Chúa Trời đối xử với dân Ngài.

Đúng vậy, mặc dù bài Thánh thi bắt đầu với những lời than thở và phàn nàn, nhưng nó không kết thúc ở đó. Và đó là điểm cốt yếu.

Bài Thánh thi này dẫn chúng ta đến việc chủ ý chọn sự tin cậy vào quyền năng cứu rỗi của Đức Chúa Trời (Thi thiên 13:5), để nỗi sợ hãi và lo lắng của chúng ta (Thi thiên 13:1–4) có thể dần dần nhường chỗ cho sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, và chúng ta bắt đầu trải nghiệm sự thay đổi từ than thở đến ngợi khen, từ tuyệt vọng đến hy vọng (Thi thiên 13:5, 6).

Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ đọc qua loa các lời trong Thi thiên và hiểu ý nghĩa chúng cách sơ sài, Thi thiên sẽ không mang đến sự biến cải chân thực như với mục đích dự tính. Khi cầu nguyện bằng Thi thiên, chúng ta nên tìm kiếm Đức Thánh Linh để giúp chúng ta hành động theo cách mà Thi thiên đòi hỏi. Các bài Thánh thi không chỉ đơn giản là lời thông báo của Đức Chúa Trời nhưng qua đó các đức tính và hành động của tín đồ được biến cải. Nhờ ân điển của Đức Chúa Trời, những lời hứa trong Thi thiên được bày tỏ trong đời sống của những người tin Chúa. Điều này có nghĩa là chúng ta để Lời Đức Chúa Trời uốn nắn chúng ta theo ý muốn của Ngài và hiệp một chúng ta với Đấng Christ, Đấng đã thể hiện ý muốn của Đức Chúa Trời một cách hoàn hảo và, là Con Đức Chúa Trời nhập thể, cũng đã cầu nguyện bằng Thi thiên.

Làm thế nào để những thử thách của bạn có thể kéo bạn đến gần Chúa hơn? Tại sao, nếu bạn không cẩn thận, chúng có thể đẩy bạn xa khỏi Ngài?

Đọc Thi thiên 60:1–5. Bạn nghĩ bài Thánh thi này là một lời cầu nguyện thích hợp cho những dịp nào? Làm sao chúng ta có thể nhận được lợi ích từ các bài Thi thiên than khóc ngay cả trong những giai đoạn vui thích của cuộc đời?

Những bài Thánh thi Than khóc thường được hiểu đó là lời cầu nguyện của những người đang sống qua những thời kỳ thử thách về thể chất, tâm lý hay tinh thần. Hoặc cả ba.

Điều này không có nghĩa là chúng ta nên tránh những bài Thi thiên này, ngay cả trong thời kỳ sung mãn. Đôi khi có thể có sự khác biệt hoàn toàn giữa lời của bài Thánh thi và kinh nghiệm hiện tại của người thờ phượng. Nghĩa là, Thi thiên Than khóc có thể ích lợi cho những người thờ phượng không gặp hoạn nạn.

Trước hết, các bài Thi thiên này có thể giúp chúng ta nhận thức rõ hơn rằng đau khổ là một phần trong trải nghiệm chung của con người, và điều đó xảy ra cho người công bình lẫn kẻ ác. Các Thi thiên bảo đảm với chúng ta rằng Đức Chúa Trời có quyền uy, và Ngài cung cấp sức mạnh cũng như giải pháp cho những lúc khó khăn. Trong bài Thánh thi này, ngay cả giữa lúc tai ương (“Chúa khiến đất rúng động” Thi thiên 60:2), tác giả bày tỏ niềm hy vọng tột cùng của mình vào sự giải cứu của Đức Chúa Trời.

Thứ hai, các bài Thi thiên Than khóc dạy chúng ta lòng trắc ẩn đối với những người đau khổ. Khi bày tỏ niềm hạnh phúc và lòng biết ơn đối với Thượng Đế, đặc biệt là ở nơi công cộng, chúng ta phải để tâm đến những người kém may mắn. Có thể chúng ta đang vui hưởng nhiều ơn phước lúc này, nhưng ai lại không biết có những người xung quanh đang phải chịu hoạn nạn đắng cay? Cầu nguyện bằng những bài Thi thiên như vậy có thể giúp chúng ta không quên những người đang trải qua giai đoạn khó khăn. Các bài Thánh thi gợi lên trong chúng ta lòng trắc ẩn và ước muốn phục vụ những người đau khổ như Chúa Giê-su đã làm.

“Thế giới này là một ngôi nhà bệnh hủi bao la, nhưng Đấng Christ đã đến để chữa lành người bệnh, để công bố sự giải thoát cho những kẻ bị giam cầm bởi Sa-tan. Trong chính Ngài là sức khỏe và sức mạnh. Ngài truyền sự sống của Ngài cho những người bệnh tật, đau khổ, những người bị quỷ ám. Ngài không từ chối một ai đến nhận quyền năng chữa lành của Ngài. Ngài biết rằng những người đến cầu xin Ngài giúp đỡ đã tự chuốc lấy bệnh tật; tuy nhiên Ngài không từ chối chữa lành cho họ. Và khi lòng nhân đức từ Đấng Christ nhập vào những linh hồn tội nghiệp này, họ nhận biết tội lỗi mình, và nhiều người được chữa lành bệnh thuộc linh cũng như bệnh thể xác của họ. Phúc âm vẫn có sức mạnh như cũ, đâu có lý do gì chúng ta không chứng kiến được những kết quả tương tự?”—Ellen G. White, Welfare Ministry, tr. 24, 25.

Bạn biết ai, ngay bây giờ, không những cần lời cầu nguyện của bạn mà còn cần cả bàn tay chăm sóc giúp đỡ của bạn nữa?

NGHIÊN CỨU BỔ TÚC: Đọc Thi Thiên 42:8 và Ellen G. White, “Poetry and Song,” tr. 159–168, trong Education. Theo những lời được soi dẫn này, lời cầu nguyện và bài hát liên quan ra sao?

Ellen G. White mô tả các Thi thiên ăn năn của Đa-vít (ví dụ, Thi thiên 51) là tiếng nói tự tâm hồn ông và những lời cầu nguyện minh họa tính chất của nỗi đau buồn thực sự vì tội lỗi (xem Con Đường Giải Thoát tr. 21 [bản tiếng Việt]—Steps to Christ, tr. 24, 25). EGW khuyến khích các tín hữu học thuộc các bài Thi thiên như một cách nuôi dưỡng sự nhận biết về sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong đời sống của mình. Nó cũng làm nổi bật hành động của Đức Chúa Giê-su khi Ngài gặp cám dỗ hay đối diện nỗi sợ hãi kinh hoàng, Ngài cất giọng đọc nhiều bài Thi thiên. EGW cũng nhận xét: “Biết bao nhiêu lần qua những lời thánh ca khơi mở trong tâm hồn những suối nguồn ăn năn và đức tin, hy vọng cùng yêu thương và hân hoan! . . . Thật vậy, nhiều bài hát là lời cầu nguyện.”—Education, tr. 162-168.

Khi chúng ta cầu nguyện và hát Thánh thi, chúng ta ôm lấy sự kiên trì, dạn dĩ, can đảm và hy vọng của các tác giả. Họ khuyến khích chúng ta tiếp tục cuộc hành trình thuộc linh và an ủi chúng ta rằng chúng ta không đơn độc. Bao người khác, như chúng ta, đã trải qua nhiều giai đoạn đen tối nhưng vẫn chiến thắng nhờ ân điển Đức Chúa Trời. Đồng thời, các Thi thiên cho chúng ta thoáng nhìn thấy sự can thiệp nhiệt thành của Đấng Christ, vì Ngài hằng sống để cầu nguyện cho chúng ta (Hê-bơ-rơ 7:25).

Dùng Thi thiên để cầu nguyện và thờ phượng giúp cộng đồng đức tin chúng ta ý thức được đầy đủ tầm kinh nghiệm của nhân loại và dạy những người thờ phượng tham gia vào các khía cạnh khác nhau của kinh nghiệm đó trong sự thờ phượng. Các Thi thiên là những lời cầu nguyện và bài hát vừa mang tính thiêng liêng vừa mang tính phàm trần. Vì lý do đó, dùng Thi thiên trong sự thờ phượng cách liên tục sẽ mang cộng động tín hữu đến trung tâm của ý muốn Đức Chúa Trời và ân điển chữa lành đầy quyền năng của Ngài.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

  1. Tại sao lối cầu nguyện tự nhiên, tự bộc phát không phải là cách cầu nguyện duy nhất? Làm thế nào Thi thiên —những lời cầu nguyện trong Kinh Thánh — có thể bổ ích cho chúng ta?
  2. Thi thiên có thể làm phong phú kinh nghiệm cầu nguyện chung của chúng ta ra sao? Thảo luận một vài phương cách thực tế mà hội thánh địa phương của bạn có thể thúc đẩy việc dùng Thi thiên trong các buổi thờ phượng của hội thánh.
  3. Các bài Thi thiên bày tỏ điều gì về sự phức tạp trong hành trình đức tin của con người và quyền năng về ân điển chữa lành của Đức Chúa Trời?

Bài Học 1, 30 Tháng 12 — 5 Tháng 1

Cách Đọc Thi Thiên

KINH THÁNH NGHIÊN CỨU: 1 Sử ký 16:7; Nê-hê-mi 12:8; Thi thiên 25:1–5; Thi thiên 33:1–3; Rô-ma 8:26, 27; Thi thiên 82:8; Thi thiên 121:7.

CÂU GỐC: “Đoạn, Ngài phán rằng: ‘ Ấy đó là điều mà khi ta còn ở với các ngươi, ta bảo các ngươi rằng mọi sự đã chép về ta trong luật pháp Môi-se, các sách tiên tri, cùng các thi thiên phải được ứng nghiệm.’ Bấy giờ Ngài mở trí cho môn đồ được hiểu Kinh Thánh” (Lu-ca 24:44, 45).

Đọc 1 Sử ký 16:7, Nê-hê-mi 12:8, Thi thiên 18:1, Thi thiên 30:1, Thi thiên 92:1, Thi thiên 95:2, Thi thiên 105:2, Cô-lô-se 3:16 và Gia-cơ 5:13. Những dịp nào đã thúc đẩy việc một số bài Thi thiên được viết ra? Dân Đức Chúa Trời sử dụng Thi thiên lúc nào?

Các Thánh thi được sáng tác để dùng cách riêng tư và cũng cho sự thờ
phượng chung. Chúng được hát như những bài thánh ca tại đền thờ, như ta thấy những chú thích âm nhạc đề cập đến các nhạc cụ (Thi thiên 61:1), giai điệu (Thi thiên 9:1) và nhạc trưởng (Thi thiên 8:1).
Trong Kinh Thánh tiếng Do Thái, tựa đề của Sách Thi thiên, tehilim, “ca
ngợi,” phản ảnh mục đích chính của nó, đó là ca ngợi Đức Chúa Trời. Tựa đề tiếng Anh Book of Psalms có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp psalmoi, được tìm thấy trong bản Septuagint, bản dịch tiếng Hy-Lạp đầu tiên của Kinh Thánh tiếng Do Thái (vào thế kỷ thứ hai và thứ ba Trước Công Nguyên). Các Thi thiên là một phần không thể thiếu trong sự thờ phượng của dân Y-sơ-ra-ên. Chẳng hạn, chúng được dùng trong lễ cung hiến đền thờ, lễ hội tôn giáo, đám rước và trong lễ đặt hòm giao ước ở Giê-ru-sa-lem. “Các Bài ca Đi lên từng bậc” (Thi thiên 120−134), còn được gọi là các bài ca hành hương, theo truyền thống, được hát trong cuộc hành hương đến Giê-ru-sa-lem vào ba lễ hội lớn hàng năm (Xuất Ê-díp-tô Ký 23:14–17). “Các Bài ca Ê-díp-tô” (Thi thiên 113−118) và đặt biệt Thi thiên 136 được hát tại ba lễ hội lớn hàng năm, bao gồm lễ hội Trăng mới và lễ Cung hiến đền thờ. Các Bài ca Ai-Cập có vị trí quan trọng trong lễ Vượt qua. Thi thiên 113 và 114 được hát vào đầu bữa ăn và Thi thiên 115 -118 vào cuối bữa ăn lễ Vượt qua (Ma-thi-ơ 26:30). “Các bài Ngợi khen Hằng ngày”(Thi thiên 145−150) được nhập chung với những lời cầu nguyện mỗi ngày trong các lễ buổi sáng của nhà hội. Các bài Thi thiên không chỉ đi chung với sự thờ phượng của dân chúng, mà còn hướng dẫn họ cách thờ phượng Đức Chúa Trời trong đền thánh. Đức Chúa Giê-su cầu nguyện bằng những lời trong Thi thiên 22 (Ma-thi-ơ 27:46). Thi thiên cũng đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của hội thánh đầu tiên (Cô-lô-se 3:16, Ê-phê-sô 5:19).

Mặc dù chúng ta không thờ phượng Đức Chúa Trời tại một nơi thánh như tại đền thờ thuở xưa, nhưng chúng ta ngày nay có thể dùng Thi thiên trong sự thờ phượng cách nào, dầu tại phòng riêng hay trước công chúng?

Vua Đa-vít, tên người xuất hiện trong tựa đề của rất nhiều bài Thánh thi, rất tích cực trong việc tổ chức nghi lễ thờ phượng của Y-sơ-ra-ên. Ông được mệnh danh là “người viết Thi thiên êm dịu của Y-sơ-ra-ên” (2 Sa-mu-ên 23:1). Tân Ước chứng thực Đa-vít là tác giả của nhiều Thi thiên khác nhau (Ma-thi 22:43–45; Công vụ 2:25–29, 34, 35; 4:25; Rô-ma 4:6–8). Nhiều bài Thi thiên cũng được sáng tác bởi các nhạc công người Lê-vi trong đền thờ: chẳng hạn như Thi thiên 50 và Thi thiên 73–83 của A-sáp; Thi thiên 42; 44−47; 49; 84, 85; 87 và 88 bởi các con trai của Cô-rê; Thi thiên 88 của Hê-man người Ếch-ra-hit (Ezrahite); và Thi thiên 89 của Ê-than người Ezrahite. Ngoài ra, Sa-lô-môn (Thi thiên 72; 127) và Môi-se (Thi thiên 90) cũng là tác giả của một số bài Thánh thi.

Đọc Thi thiên 25:1–5; 42:1; 75:1; 77:1; 84:1, 2; 88:1–3; và Thi thiên
89:1. Những bài Thi thiên này tiết lộ gì về những kinh nghiệm mà các tác giả đã trải qua?

Đức Thánh linh đã truyền cảm hứng cho các tác giả Thi thiên và dùng
tài năng của họ để phục vụ Đức Chúa Trời và cộng đồng đức tin. Họ là
những người có lòng kính sợ chân chính và đức tin sâu đậm, nhưng cũng gặp nhiều cám đỗ và lắm nản lòng như tất cả chúng ta. Các bài Thi thiên này tuy được viết vào thời xa xưa nhưng chắc chắn cũng phản ảnh những nỗi niềm chúng ta trải nghiệm hôm nay. “Nguyện lời cầu nguyện của con thấu đến trước mặt Chúa; Xin hãy nghiêng tai nghe lời cầu nguyện của con. Vì linh hồn con đã đầy dẫy hoạn nạn; Và mạng sống con đã cận kề âm phủ” (Thi thiên 88:2,3). Đây là tiếng khóc của một linh hồn thuộc thế kỷ 21 cũng như của 3,000 năm trước. Có Thi thiên kể chuyện gian truân, có Thi thiên nói đến nỗi vui mừng. Có tác giả khóc với Chúa xin Ngài giải cứu, và họ nhận được ơn Chúa quá
cả sự mong ước. Họ ngợi khen Đức Chúa Trời về sự thành tín và tình yêu của Ngài, và họ cam kết sự tận tụy không mỏi mệt của họ cho Ngài. Thế nên các bài Thi thiên là những lời chứng về sự Cứu Chuộc thiêng liêng, là dấu hiệu của ân điển và hy vọng đến từ Đức Chúa Trời. Thi thiên truyền đạt lời hứa thiêng liêng của Đức Chúa Trời cho mọi kẻ tin, rằng họ sẽ nhận được sự tha thứ và một cuộc đời mới.

Làm thế nào để chúng ta có thể hy vọng và được an ủi, khi biết rằng ngay cả những người trung tín, như những tác giả Thi thiên, cũng đã chiến đấu với một số điều giống như chúng ta?

Đọc Thi thiên 3; 33:1–3, và Thi thiên 109: 6–15. Những khía cạnh khác nhau của kinh nghiệm con người đã được các bài Thi thiên này truyền đạt ra sao?

Các Thánh thi giúp cho cộng đồng tín hữu nhận thức được mọi mặt của kinh nghiệm con người, và chứng minh rằng các tín đồ có thể thờ phượng Đức Chúa Trời trong mỗi giai đoạn của cuộc đời. Trong Thi thiên chúng ta thấy:

(1) Các bài Thi thiên Tôn Vinh Đức Chúa Trời vì sự uy nghiêm và quyền năng của Ngài trong sự sáng tạo, trong vương quyền, trong sự phán xét và sự thành tín của Ngài. (2) Các bài Thi thiên Tạ Ơn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các phước lành dư dật của Đức Chúa Trời. (3) Các bài Thi thiên Than Thở với tiếng khóc tận đáy lòng kêu xin Chúa giải thoát khỏi hoạn nạn. (4) Các bài Thi thiên Khôn Ngoan đưa ra những hướng dẫn thiết thực cho đời sống công bình. (5) Các bài Thi thiên Hoàng Gia chỉ về Đấng Christ, là Vua Tối Cao và là Đấng Giải Cứu dân sự Đức Chúa Trời. (6) Các bài Thi thiên Lịch Sử nhắc lại quá khứ của Y-sơ-ra-ên và làm nổi bật sự thành tín của Đức Chúa Trời và sự bất trung của Y-sơ-ra-ên để dạy các thế hệ mai sau chớ nên lặp lại những sai lầm của tổ tiên họ, nhưng hãy tin cậy Đức Chúa Trời và trung thành với giao ước của Ngài.

Thơ của Thi thiên thể hiện sức mạnh đặc biệt thu hút sự chú ý của độc giả. Mặc dù một số quy tắc thơ ca này đã bị mất qua bản dịch, nhưng chúng ta vẫn có thể nhận biết nhiều về chúng qua ngôn ngữ quen thuộc của mình.

1. Sự Song Song liên quan đến việc kết hợp các từ, cụm từ hoặc suy nghĩ được xây dựng đối xứng. Song song giúp hiểu ý nghĩa của các phần tương ứng. Chẳng hạn: “Hỡi linh hồn ta, khá ngợi khen Đức Giê-hô-va! Tất cả những gì ở trong ta hãy ca tụng danh thánh của Ngài!” (Thi thiên 103:1). Trong sự song song này, “linh hồn ta” là “tất cả những gì ở trong ta”, có nghĩa là toàn phần của một người.

2. Hình ảnh dùng ngôn ngữ tượng hình để thu hút mạnh mẽ các giác quan của người đọc (ví dụ, nơi ẩn náu trong Đức Chúa Trời được miêu tả là “bóng cánh [Ngài]” (Thi thiên 17:8).

3. Đa từ (Merism) diễn tả toàn bộ bằng một cặp của hai phần tương phản. “Ngày và đêm tôi kêu cầu trước mặt Chúa” có nghĩa là khóc không ngừng (Thi thiên 88:1).

4. Chơi Chữ dùng âm thanh của từ để làm nổi bật một thông điệp thuộc linh. Trong Thi thiên 96:4, 5, các từ Hê-bơ-rơ ‘elohim’ (“các thần”) và ‘elilim’ (“thần tượng”) tạo ra một cách chơi chữ để truyền đạt thông điệp rằng “các thần” của các quốc gia (‘elohim’), thật ra chỉ là những (“thần tượng”) (‘elilim’).

Cuối cùng, chữ “sê-la” có nghĩa là một xen kẽ ngắn, hoặc là lời kêu gọi tạm dừng và suy ngẫm về thông điệp của một đoạn cụ thể trong Thánh thi, hoặc một sự thay đổi về nhạc đệm (Thi thiên 61:4).

Đọc 2 Sa-mu-ên 23:1, 2 và Rô-ma 8:26, 27. Những câu này dạy chúng ta điều gì về sự cầu nguyện?

Thi thiên là những lời cầu nguyện và ngợi khen được soi dẫn của Y-sơra-ên, và vì vậy trong Thi thiên, ta nghe tiếng nói của Đức Chúa Trời xen lẫn với tiếng nói của dân Ngài. Các bài Thánh thi cho thấy sức mạnh của sự liên hệ sống động giữa họ với Đức Chúa Trời.

Các tác giả Thi thiên gọi Đức Chúa Trời một cách cá nhân là “Đức Chúa Trời tôi”, “Ôi Chúa” và “Vua tôi” (Thi thiên 5:2; 84:3). Họ thường cầu xin Chúa “lắng nghe” (Thi thiên 5:1), “nghe lời cầu nguyện tôi” (Thi thiên 39:12), “xin xem” (Thi thiên 25:18), “xin nhậm lời tôi” (Thi thiên 102:2), và “giải cứu tôi” (Thi thiên 6:4). Đây rõ ràng là những biểu hiện của một người đang cầu nguyện với Đức Chúa Trời.

Thi thiên là những lời cầu nguyện, ngợi khen đẹp đẽ và truyền cảm, vì chúng là Lời Đức Chúa Trời lồng trong những lời cầu nguyện và ca ngợi thiết tha chân thành của kẻ tin. Do đó, các bài Thi thiên mang đến cho con cái Đức Chúa Trời những giây phút gần gũi, như được mô tả trong Rô-ma 8:26, 27: “Cũng vậy, Đức Thánh Linh giúp chúng ta trong khi chúng ta yếu đuối, vì chúng ta không biết phải cầu nguyện thế nào cho đúng, nhưng chính Đức Thánh Linh lấy sự than thở không thể thốt nên lời mà cầu thay cho chúng ta. Đấng dò xét lòng người hiểu biết ý tưởng của Thánh Linh là thể nào, vì ấy là theo ý Đức Chúa Trời mà Ngài cầu thế cho các thánh đồ vậy.”

Đức Chúa Giê-su cũng trích dẫn từ Thi thiên, chẳng hạn như trong Luca 20:42, 43, khi Ngài trích trực tiếp từ Thi thiên 110:1—Thơ của Đa-vít: “Đức Giê-hô-va phán cùng Chúa tôi rằng: Hãy ngồi bên hữu ta, Cho đến khi ta đặt kẻ thù nghịch ngươi làm bệ chân cho ngươi.”

Mặc dù một số Thi thiên xuất phát từ, hoặc đề cập đến, các sự kiện lịch sử cụ thể và các kinh nghiệm của chính các tác giả và của Y-sơ-ra-ên, chiều sâu thuộc linh của Thi thiên nói lên nhiều tình huống của cuộc đời, vượt qua mọi ranh giới văn hóa, tôn giáo, dân tộc và giới tính. Nói cách khác, khi bạn đọc Thi thiên, bạn sẽ thấy chúng bày tỏ hy vọng, ngợi khen, sợ hãi, giận dữ, buồn bã và phiền muộn, những điều mà mọi người ở mọi nơi, trong mọi thời đại, bất kể hoàn cảnh nào, họ đều phải đối mặt. Chúng nói với tất cả chúng ta, bằng ngôn ngữ của kinh nghiệm của chính chúng ta.

Đức Chúa Giê-su trích dẫn Thi thiên – điều này cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của các bài Thánh thi trong kinh nghiệm đức tin của chính chúng ta ra sao?

Đọc Thi thiên 16:8; 44:8; 46:1; 47:1, 7; 57:2; 62:8; 82:8; và Thi thiên 121:7. Đức Chúa Trời chiếm vị trí nào trong đời sống của tác giả ?

Thế giới của Thi thiên hoàn toàn có Chúa là trung tâm; một thế giới, qua lời cầu nguyện và ngợi khen, muốn dâng hiến mọi kinh nghiệm cuộc đời cho Chúa. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa tối cao, là Vua và Quan Án của cả thế gian. Ngài chu cấp mọi sự cho con cái Ngài. Vì vậy, Ngài phải được tin cậy. Ngay cả những kẻ thù của dân sự Đức Chúa Trời cũng hỏi: “Đức Chúa Trời ngươi đâu?” khi dân sự Ngài dường như đang gặp thất bại (Thi thiên 42:10). Vì Đức Chúa Trời là một Chúa luôn hiện diện và không bao giờ thất bại của dân sự Ngài, nên dân Ngài luôn luôn có Chúa trước mặt họ. Điều tối hậu, Thi thiên hình dung thời điểm khi mà tất cả các dân tộc và toàn thể tạo vật sẽ thờ phượng Đức Chúa Trời (Thi thiên 47:1; 64:9).

Đức Chúa Trời là trung tâm của đời sống và cũng là trung tâm của sự thờ phượng. Sự thờ phượng trong Thi thiên khác với sự thờ phượng theo cách chúng ta hiểu ngày nay, bởi vì trong nền văn hóa Kinh Thánh, sự thờ phượng là trọng tâm, là chuyện tự nhiên không thể tranh cãi trong đời sống của toàn thể cộng đồng. Vì vậy, mọi điều xảy ra, cả tốt lẫn xấu, trong đời sống của dân sự Chúa luôn luôn được phản ảnh trong sự thờ phượng. Đức Chúa Trời nghe tác giả Thi thiên bất cứ nơi nào, và đáp ứng họ vào thời điểm hoàn hảo của Ngài (Thi thiên3: 4; 18:6; 20:6).

Tác giả biết rằng nơi ở của Đức Chúa Trời là trên thiên đàng, nhưng đồng thời, Ngài ngự ở Si-ôn, trong đền thánh giữa dân Ngài. Đức Chúa Trời vừa xa vừa gần; Ngài ẩn giấu (Thi thiên 10:1) và tiết lộ (Thi thiên 41:12). Ngài ở khắp mọi nơi và Ngài ngự trong đền thờ (Thi thiên 11:4); Những đặc tính dường như loại trừ lẫn nhau này của Đức Chúa Trời được gom lại với nhau trong Thi thiên. Các tác giả hiểu rằng sự gần gũi lẫn xa cách không thể tách rời trong bản chất thật của Đức Chúa Trời (Thi thiên 24:7–10). Họ cũng hiểu động lực của sự căng thẳng thuộc linh này. Nhận thức của tác giả rằng giữa bất cứ hoàn cảnh nào họ đang trải nghiệm cũng có sự tốt lành và hiện diện của Chúa. Đó là những điều củng cố niềm hy vọng của họ trong khi họ chờ đợi Chúa can thiệp, lúc nào hay cách nào tùy Chúa quyết định.

Thi thiên có thể giúp chúng ta hiểu ra sao rằng chúng ta không thể giới hạn Đức Chúa Trời chỉ trong một vài khía cạnh của đời sống chúng ta? Có thể bạn đang tìm cách giữ khoảng cách với Chúa trong một góc diện nào chăng?

NGHIÊN CỨU BỔ TÚC: Thi thiên bao gồm 150 bài thánh thi, được phân chia thành năm sách: Quyển I (Thi thiên 1−41), Quyển II (Thi thiên 42−72), Quyển III (Thi thiên 73−89), Quyển IV (Thi thiên 90−106), và Quyển V (Thi thiên 107−150). Sự phân chia năm cuốn sách của Thi thiên là một truyền thống Do Thái thuở ban đầu tương đương với sự phân chia năm cuốn sách đầu tiên của Cựu Ước.

Sách Thi thiên cung cấp bằng chứng về một số tuyển tập Thánh thi đã có: Tuyển tập Cô-rê (Thi thiên 42−49; 84; 85; 87; 88), Tuyển tập A-sáp (Thi thiên 73-83), Bài ca đi lên từng bậc (Thi thiên 120−134), và Thánh vịnh Halê-lu-gia (Thi thiên 111−118, 146−150). Thi thiên 72:20 là bằng chứng của bộ sưu tập các bài Thi thiên của Đa-vít.

Tuy hầu hết các bài Thi thiên đều gắn liền với thời của Vua Đa-vít và thời kỳ đầu của chế độ quân chủ (thế kỷ thứ mười trước Công nguyên), tuyển tập các bài Thi thiên tiếp tục phát triển qua các thế kỷ sau: vương quốc phân chia, sự lưu đày và thời kỳ hậu lưu đày. Có thể lắm những người ghi chép Hê-bơ-rơ dưới sự lãnh đạo của E-xơ-ra đã gom kết các bộ sưu tập thánh thi nhỏ đang hiện hành thời đó thành một tập sách khi họ bắt tay vào việc thiết lập các dịch vụ của ngôi đền mới.

Việc các học giả tổng hợp Sách Thánh thi không ảnh hưởng gì đến nguồn cảm hứng thiêng liêng của các bài Thi thiên. Các ghi chép gia, giống như những tác giả Thi thiên, là những tôi tớ tận tụy của Đức Chúa Trời, và công việc của họ được Đức Chúa Trời hướng dẫn (E-xơ-ra 7:6,10). Bản chất thiêng liêng/phàm tục trong Thi thiên có thể so sánh với sự kết hợp giữa thần tính và nhân tính trong Chúa Giê-su. “Nhưng Kinh Thánh là lẽ thật của Đức Chúa Trời được diễn tả bằng ngôn ngữ loài người, bày tỏ sự kết hợp giữa thiên đàng và hạ giới. Đồng một sự kết hợp ấy thể hiện qua bản tính của Đấng Christ; Ngài vừa là Con Đức Chúa Trời vừa là Con người. Vì vậy, điều này cũng đúng với Kinh Thánh, bởi ‘Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta.’ ”—Ellen G. White, Thiện Ác Đấu Tranh, q.1 tr. 7, 8 [bản dịch tiếng Việt] (The Great Controversy, p.8).

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

Thi thiên là những lời cầu nguyện và bài ca vừa mang tính thiêng liêng vừa mang tính con người có nghĩa gì? Ý tưởng này, tuy là khó hiểu cách vẹn toàn, giúp chúng ta thấy được ra sao sự gần gũi mà Chúa muốn với dân Ngài? Nó tiết lộ sự gần gũi giữa Đức Chúa Trời với nhân loại và với mỗi cá nhân chúng ta như thế nào?

Hãy chia xẻ trong lớp về một thời điểm khi bạn tìm thấy Thi thiên như đang trực tiếp nói về hoàn cảnh của bạn. Bạn tìm thấy niềm an ủi và hy vọng nào ở đó?